Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

Gallery


bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt Empty

November 2024

MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
252627282930 

Calendar Calendar

Khách thăm



bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt Flags_1



    bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1198
    Join date : 31/01/2008

    bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt Empty bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt

    Bài gửi by Admin 21/6/2010, 3:35 pm

    Cặp quẻ: Mờ mệt

    bài 21 - Cặp quẻ: Mờ mệt Image012
    Mờ mệt đọc sai đi thành mờ mịt vô nghĩa, dịch sang Hoa ngữ là mông và truân.
    Mờ là nguyên nhân, mệt là kết quả, với mỗi con người thực tế nếu trình độ thấp thì phải chịu lao nhọc, bán mồ hôi mà ăn, còn đối với quốc gia xã hội nếu trình độ khoa học, kỹ thuật thấp thì thiên nan vạn nan, đến thánh nhân cũng phải đau đầu. Tiếng Việt có câu “gian truân, vất vả” chính là tình huống này.
    Trên thế giới dù ta gọi là Quốc gia chậm tiến, kém phát triển hay lạc hậu, nhược Tiểu quốc v.v…đều nằm trong nghĩa Quẻ mờ hay mông này… mờ ở đây không phải là không thấy đường mà là mờ về tri thức, về trình độ khoa học thấp kém nói chung là trình độ dân còn quá thấp với một tình cảnh xã hội như thế thì đấng trưởng nhân tức người gánh vác việc nước sẽ vất vả vô cùng, làm sao có thể thúc đẩy xã hội tiến lên khi cả xã hội toàn là những người không hiểu gì, không biết làm gì ngoài việc đào khoai xúc tép… chỉ với sức cơ bắp và cái đầu trống rỗng thì gian nan biết chừng nào cho người lãnh đạo? Đã vậy khi lực không có thì thiên hạ thiếu gì kẻ sẵn sàng nhảy vào hòng đè đầu cởi cổ mình. Đấng quân tử lúc này thực hao tâm khổ – trí biết bao nhiêu cho đủ, tình này cảnh Dịch học gói gọn có mỗi một chữ: Mệt hay Truân.
    Mờ và mệt là cặp quẻ đảo hay đảo lộn, giá trị phần 64 Quẻ chồng là ở việc thành lập từng cặp quẻ, tình cảnh xảy ra là có nguyên nhân, từng cặp quẻ giúp ta biết việc phải làm để khắc phục, sửa đổi hay cải cách 32 cặp quẻ là 32 định luật tiến hóa của xã hội, thấu triệt và vận dụng thành công các định luật này là mục đích của Dịch học. Phần lớn giá trị của Dịch học cũng nằm ở đây, nếu không có 32 định luật này thì Dịch học trở thành sách nói nhăng nói cuội … chẳng ơn ích gì.
    A- Quẻ mờ tối: Thủy Lôi
    Mưa gió sấm chớp mù trời là tượng mờ tối. Mờ tối  Hoa ngữ là Mông nhưng trong Dịch học của Tàu thì Thủy Lôi lại gọi là quẻ Truân .
    Ngược lại trong Dịch học Hùng Việt  Sơn Thủy  ghép thành  quẻ Truân tức mệt mỏi truân chuyên còn Dịch học  Tàu đảo lộn Sơn trên Thủy lại là quẻ Mông - mờ tối .
    a. Lời Quẻ (Quái từ): Mông, Hanh phỉ ngã cầu đồng mông, Đồng Mông cầu ngã sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo, lợi trinh.
    Mông, Hanh là khai thông sự mờ tối đồng nghĩa với chữ: khai trí. Tiếp theo dịch nghĩa là: người Thầy không tìm trẻ thơ để dạy (học), mà trẻ thơ phải tìm đến thầy mà học, hỏi một lần thì chỉ bảo, quá tam ba bận hay nhất quá tam thì không phí công dạy dỗ, giáo dục là lợi ích trăm năm (lâu dài)
    Quái từ nói đến 2 điều: ước muốn học tập và khả năng học tập. Kẻ đã không muốn học thì thầy có tìm đến bổ đầu nhét chữ cũng không thể vào được, thầy tìm trò là vất bỏ sự tôn nghiêm, như vậy cái phải học đầu tiên là “Lễ” đã không có thì làm gì còn là giáo dục;
    thứ đến phải có khả năng học tập mới tiếp thu được sự dạy dỗ, khả năng này ngày nay gọi là chỉ số thông minh.
    Năng lực kém cỏi quá việc học cũng không thành, nên quái từ nói hỏi đến 3 lần thì không dạy nữa.
    b. Lời tượng (tượng từ): Vân lôi mông, quân tử dĩ kinh luân.
    Mây mưa sấm chớp mù trời là tượng quẻ mờ tối (mông), trưởng nhân phải lo sắp đặt tổ chức tạo lập giềng mối cho thiên hạ.
    Cũng như con thuyền trên biển cả mênh mông biết dựa vào đâu để tìm đến bến bờ? Người Quân tử dĩ kinh luân, tức làm ra kinh tuyến vĩ tuyến để có kinh độ vĩ độ làm chuẩn mốc cho phép xác định hướng đi của con thuyền để tìm đến bến.
    Còn trong lĩnh vực xã hội, mông là trạng thái hỗn mang trên dưới chưa phân, phải trái chưa định, xã hội chưa được tổ chức sắp xếp có nề có nếp, mọi việc còn rối rắm mờ mịt nhiều khi không biết khởi động từ đâu, lấy khâu nào làm khâu đột phá.
    Trên bình diện thế giới, mông chỉ các quốc gia kém phát triển, trình độ khoa học kỹ thuật còn thấp kém.
    C. Lời Hào
    c.1 Hào sơ: Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát trất cốc, dĩ vãng lẫu.
    Hào sơ chỉ lúc mới đầu của công việc gây dựng cơ nghiệp, tiến hành cách tân, trình độ dân chúng còn rất thấp thì khoan nói chuyện đạo nghĩa, lý lẽ, cốt yếu là ban hành và thực thi luật pháp, hình pháp là bất đắc dĩ nhưng phải dùng để tạo kỷ cương; Dụng thoát trất cốc nghĩa là dùng hình pháp để con người không còn dám tham lam, ác độc cũng như tháo cái gông cùm ra khỏi cổ con người vậy.
    Mục đích việc dụng hình là để chính pháp luật. Quá lạm để thị uy sẽ trở thành tàn ác. Sự mông ở Hào sơ này là mông tất nhiên, cái mông nguyên sơ của con người, từ đó mới tiến lên dần mãi tới văn minh.
    c.2 Hào nhị:
    Bao mông cát, nạp phụ cát tử khắc gia. Bảo bọc kẻ ngu tối dung nạp người yếu đuối. Đấy là việc của người quản lý cộng đồng phải làm.
    Mông chỉ người yếu kém về trí tuệ.
    Phụ chỉ sự yếu kém về thể lực.
    Xã hội phải quan tâm chăm lo bảo bọc cho 2 giới người này, khi viết hào từ này chắc chắn trong đầu tác giả lèn chặt câu “Thông minh nhất nam tử,” câu nạp phụ cát rõ ràng xếp đàn bà ở bậc dưới, cả thể lực và trí tuệ; sự bao dung trong hào từ này ngày nay đã trở thành chính sách xã hội, nước nào cũng có quĩ xã hội để chia xẻ, nâng đỡ phần nào những người kém thế, ý hào nhị là sự mờ tối ở đây là do “trời sắp xếp” hay thiên định, bản thân sự mờ tối là một sự thiệt thòi bẩm sinh, không có lỗi chủ quan nên xã hội phải bù đắp phần nào.
    c.3 Hào Tam
    Vật dụng thứ nữ kiến kim phu, bất hữu cung vô du lợi.
    Nghĩa thông thường là: Đừng lấy hạng đàn bà, thấy đàn ông giàu có là tít mắt, không còn nghĩ gì đến phẩm giá của mình, nếu dây vào ả thì thực là bại hoại (vô du lợi)
    Nghĩa Dịch học hào từ này là chỉ bọn “tối mắt” vì tiền, những kẻ theo đạo thờ tiền, coi tiền là trên hết và coi việc kiếm tiền là mục đích của đời người.
    Cũng là mờ tối nhưng 2 hào sơ và nhị không bị lên án vì đấy là do khách quan và bẩm sinh, còn tới hào tam thì do con người tự làm mù mắt mình, đến cùng cực có thể chết vì tiền, điều này triết học gọi là sự vong thân, sự vong thân ngày nay chính là “bất hữu cung” của Dịch học ngày xưa.
    c.4 Hào Tứ
    Khốn mông – lận
    Khốn khổ vì mắt to hơn người, thực là lầm lẫn.
    Mắt to hơn người ý chỉ bọn duy lý luận, diễn biến trong thế giới “tín hiệu” trở thành khép kín trong não bộ, mất liên lạc hoàn toàn với thế giới thực ở bên ngoài. Quá trình xử lý thông tin của não bộ là độc lập với bên ngoài, nhưng kết quả luôn phải được kiểm chứng – đối chiếu, nếu kết quả có khác thì luôn luôn là lý luận sai chứ thực tế làm sao sai được? Nhưng một khi cơn say lý luận tới tột độ thì lý luận không thể sai… và chân phải gọt cho vừa giày.
    Lấy kết luận của suy nghĩ chủ quan làm chân lý thì thực là tự mình bịt mắt mình, tự mình làm cho mình mờ tối đi, cần gì phải đi tìm nữa vì chân lý đã có sẵn trong đầu rồi…
    Hào tam là duy lợi đến hào tứ là duy lý cả 2 sự mù lòa đều do chữ duy mà ra.
    c.5 Hào ngũ: Đồng mông cát
    Trí óc trẻ thơ như tờ giấy trắng tốt lắm.
    Mông ở đây hiểu là chẳng biết gì, trong trắng như trẻ thơ, đây là trường hợp đặc biệt duy nhất. Mông mà lại tốt. Tai mắt dần dần khai mở tiếp thu kiến thức về thế giới và cuộc đời, quan niệm của Nho giáo là nhân chi sơ tính bản thiện, viết vào tờ giấy trắng những điều xấu xa là tại người lớn, uốn nắn tính khí của đứa trẻ là một kỳ công, có cái dạy bằng lời nhưng hàng ngàn cái dạy bằng gương sống thực, gần gũi là người thân trong gia đình, rộng ra là xã hội trẻ con học lời dạy bảo nhưng tập quen theo thói ăn ở của những người chung quanh, miệng thì dạy con phải sống cho công bằng nhưng nhà cứ buôn gian bán lận hỏi trẻ thơ sẽ đi theo đường nào?
    c.6 Hào thượng: Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
    Kẻ tăm tối có những hành động ngu xuẩn thì phải chịu sự trừng phạt, nhưng luôn nhớ tác dụng của sự trừng phạt là để giáo hóa, để lôi nó thoát khỏi sự tối tăm chứ không phải là sự trả thù. Trừng phạt nặng tay quá rất có thể khiến kẻ phạm tội trở thành giặc cướp vì cùng đường. Trong vòng pháp luật không còn con đường sống thì bắt buộc phải sống ngoài vòng pháp luật, không còn đường nào khác nữa.
    B. Quẻ mệt = Sơn/ Thủy
    a. Lời Quẻ: Truân (bỏ nguyên hanh lợi Trinh) vật dụng hữu du vãng, lợi kiếu hầu
    Chữ mệt dịch sang Hoa ngữ là Truân hay gian truân vất vả. Nhưng người Tàu lại viết là: vân lôi truân tức ngược với dịch học họ Hùng.
    Có là người Việt, thuộc lòng truyện Sơn Tinh Thủy Tinh mới hiểu rõ 2 quẻ thủy sơn: kiển và sơn thủy: Truân tức vất vả.
    Thủy Sơn kiển: Nước ở trên núi tức là nạn, nước dấy lên tràn núi lấp gò là nạn lụt, không phải là nạn lụt thông thường mà là cơn đại hồng thủy.
    Còn Sơn Thủy là truân, (dịch học Tàu ngược lại), nước đang rút nên đã ở dưới núi, đây là lúc phải vất vả vô cùng để xây dựng lại cơ ngơi, nhà cửa, ruộng vườn, trâu bò và các phương tiện khác có còn gì đâu? Thực là một cảnh hoang tàn.
    Trong hoàn cảnh này không thể phát động ngay những việc to lớn mà phải lo ngay vấn đề nhân sự để vận hành guồng máy quản lý quốc gia.
    b. Lời tượng: Truân: quân tử dĩ quả hạnh Dục đức
    Gặp hoàn cảnh này người lãnh đạo phải hành động một cách cương quyết, rắn rỏi và luôn bồi dưỡng đức độ để ngày càng cao trọng hơn.
    Hoàn cảnh gian truân vất vả đòi hỏi trên dưới một lòng, dưới đối với trên tâm phục khẩu phục làm việc quên mình, chính vì thế tượng từ nói phải “dục đức” để thu phục nhân tâm, có vậy việc vượt thác băng ngàn mới có thể thành công.
    c. Hào từ
    c.1 Hào sơ: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu
    Buổi ban đầu chưa xác định được phương hướng phát triển, không vội vã hành động, lo củng cố đội ngũ cán bộ, sẵn sàng guồng máy thực thi.
    c.2 Hào nhị: Truân như, chiên như, thừa mã ban như, phỉ khấu hòn cấu. Nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
    Phát động cải cách vội vã duy ý chí, giữa đường buộc phải sửa sai, cần một thời gian dài xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật (tượng trưng là 10 năm )
    Khi đã có nền tảng vật chất việc cải cách xã hội mới có thể thành công được (đặt tên).
    Đừng bế quan tỏa cảng, hãy mở rộng cửa giao lưu với nước ngoài đấy là sự kết hợp cần thiết và tự nhiên cho công cuộc phát triển (phỉ khấu hòn cấu), lúc nào cũng bo bo sợ người khác cướp nước, thật ra là sợ cướp ngôi là một sai lầm lớn, có tội với lịch sử.
    c.3- Hào Tam: Tức lộc vô ngu, duy nhập vô lâm trung, quân tử cơ bất như xả vãng lận…
    Lộc là con nai cũng là lợi lộc. Lao vào săn tìm lợi nhuận một cách điên cuồng, trưởng nhân lập tức tránh xa nếu không sẽ phải hối hận cả đời, vì hành vi thủ lợi bất chấp thủ đoạn rồi ra thế nào cũng sa lầy không lối thoát, lúc đó sẽ mất tất cả, còn để tiếng xấu muôn đời.
    c.4 Hào Tứ: Thừa mã ban như, cầu hôn cấu vãng cát, vô bất lợi.
    Công cuộc phát triển đang tiến bước, rồi sẽ đến một khúc quanh có tính quyết định, phải mở cửa liên kết với thế giới, lùi lại dựa theo thực tế giảm bớt sự duy lý thì không gì là không lợi.
    Ví dụ có tính thời sự là hãy gia nhập WTO để liên kết với thế giới. Tìm kiếm cơ hội phát triển dựa trên ưu thế cạnh tranh và bổ sung những khiếm khuyết ở tầm mức quốc gia.
    c.5 Hào ngũ: Truân kỳ cao, tiểu trinh cát đại trinh hung
    Cao trào cách mạng đã đến đỉnh điểm, giữ vững những thành tựu về mặt vật chất là tốt nhưng phải đẩy mạnh chuyển biến về văn hóa, đạo đức nếu không cuộc cách mạng sẽ thất bại vì sự sa đọa tinh thần sẽ kéo lùi tất cả.
    c.6 Hào thượng: Thừa mã ban như khấp huyết liên như
    Tiến lên bằng sự duy ý chí bất chấp thực tế, cuối cùng là bể khổ.
    Con người sung sướng tới độ không còn nước mắt mà khóc.
    Biết bao mồ hôi đổ ra, thậm chí cả máu nữa cuối cùng chỉ được ăn bánh vẽ mà thôi.
     

      Hôm nay: 24/11/2024, 7:07 am