Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Gallery


Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II Empty

June 2024

MonTueWedThuFriSatSun
     12
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930

Calendar Calendar

Khách thăm



Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II Flags_1



    Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1190
    Join date : 31/01/2008

    Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II Empty Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II

    Bài gửi by Admin 13/6/2024, 3:24 pm

    * – Chỉnh sửa số 6 .
    Sử ̣địa nước Việt cổ có 2 danh xưng tối quan trọng buộc phải làm rõ nếu không thì không thể biết người Việt là ai .
    Cổ sử Trung hoa gọi người Việt đất Việt xưa là Giao chỉ , đời Tây Hán có Giao chỉ quận chỉ miền Bắc Việt và Giao chỉ bộ chỉ vùng đất rộng lớn bao trùm Bắ̉c Việt và lưỡng Quảng , sang Đông Hán Giao chỉ bộ đổi thành Giao châu , xa hơn nữa từ thời Nghiêu Thuấn Kinh thư đã ghi chép về đất Nam Giao và họ gán cho những danh xưng này ý nghĩa hết sức thô thiển chí cốt miệt thị người khác ,rõ là trơ trẽn đến độ buồn cười đáng thương hại ;
    .- Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì  ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái).
    Hay ;
    – Người Man ở phương Nam, xâm trán, giao chỉ. còn giảng rõ thêm: chỉ là chân vậy. Người Man khi nằm, đầu hướng vào trong, chân hướng ra ngoài, hai chân gác tréo lên nhau nên gọi là giao chỉ.???
    Còn đất Nam Giao thì họ tự tiện gán cho nghĩa là… vùng đất ở phía Nam của Trung quốc .
    Cùng với việc xác định nghĩa của tên gọi nước Xích qủy là nước Thủy vì phép phiên thiết cho xích qủy củng là ‘thích qủy thiết thủy’ tức quốc gia nước tức Thủy quốc- Lạc quốc , lạc là biến âm của từ Việt ngữ ….nước – nác – lạc .
    Sử thuyết Hùng Việt cũng đã nhận ra nghĩa chân xác của các từ :
    Giao chỉ’ là từ biến đổi của ‘chỗ giữa’ chỉ vùng trung tâm thiên hạ chứ chẳng có chân tay co quắp gì ở đây .giao là biến âm của giữa , từ ‘chỉ’ là biến đổi của ‘chỗ’ tiếng Việt . Nam Giao thực ra là Nam Giao chỉ theo nghĩa là vùng đất phía Nam Giao chỉ , phía Nam nay đã bị lộn ngược gọi là Bắc tức đất Lưỡng Quảng về sau . (Xin hãy nhớ Nam quan là của Ta mà Tàu đã lấy mất chỉ vì cái chữ Nam lộn ngược …)
    Tư liệu cổ sử Việt còn lầm lẫn lớn khác ; nước ta khởi thủy do 15 bộ tộc hay bộ lạc hợp thành , thực ra không có cụm từ 15 bộ tai hại , chính xác ra là ‘bộ 10-5’,
    Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác - II Image017
    Nhìn đồ hình Hà thư nhận ra :
    Bộ 10- 5 là bộ trung tâm Hà thư chính là thể hiện khác của tên gọi bộ Giao chỉ – chỗ giữa .
    Ta phải đặt Việt sử trên cái nền Dịch học thì mới nhận ra được ngh̃ia chính xác thực sự của nhưng danh xưng trong cổ sử như Thái Viêm Thần nông , đế Hoàng – vua màu Vàng , đất Giao chỉ – chỗ Giữa , 15 bộ thực ra là bộ 10-5 , nước Lạc -Nác Nam triều v.v..
    * – Chỉnh sửa số 7 .
    Ngoài Triệu Đà đánh An Dương vương đã xét trên , cổ sử họ Hùng còn 1 ông Đà khác là úy ̣Đà quận úy quận Nam Hải truyền thuyết gọi là …người tuấn kiệt đã nổi lên chống Tần trong sử Việt .
    – Triệu Đà đánh An dương vương trong truyền thuyết tráo nỏ thần là Tần Hiếu Văn vương Doanh Trụ ông nội Triệu Chính – Tần Thủy Hoàng .
    – Úy Đà quận úy quận Nam Hải là người tuấn kiệt đã nổi lên chống Tần trong sử Việt . xét ra Trong bối cảnh lịch sử thời điểm này thì không thể là ai khác ngoài Lưu Bang , sử Việt là Lí Bôn Nam Việt đế .
    Triều đại do Lí Bôn Lưu Bang kiến lập sau khi Lữ hậu mất đã bị phân đôi ; triều đình đóng tại đại Hưng thành cũng là Trường an sau này là triều Hiếu sử sách gọi Lí Bôn là Hưng đế Cao tổ của dòng hoàng tộc còn Lưu Triệt mới được gọi là Hiếu vũ đế tức sử sách coi Lưu Triệt mới là vua kiến lập triều đại , với triều đình ở Phiên Ngung thì Lí Bôn Lưu Bang được sử gọi là Nam Việt Vũ đế tức công nhận là vì vua đã kiến lập triều đại ..
    * – Chỉnh sửa số 8 .
    Sử hiện hành viết năm 111TCN nhà Hán đánh chiếm Nam Việt ,vậy mà thật kì lạ mãi đến năm 42-43 khi Mã Viện chiếm nước của 2 bà Trưng thì tại mảnh đất Nam Việt vẫn do các cừ súy Việt cai quản , Mã Viện bắt hơn 200 cừ súy đem về Tàu .luật pháp ở đấy vẫn là Việt luật (khác Hán luật 10 điều) , dân chúng vẫn còn dùng trống đồng tế lễ tổ tiên …. và lãnh thổ am Việt lúc ấy vẫn chưa được phân chia theo địa lí hành hánh kiểu Hán tức ở đây thực sự vẫn còn nguyên là 1 xã hội thuần Việt .
    Sự việc này chỉ có th̉ể giải thích nếu nhà Hiếu của Hiếu vũ là 1 triều đại Việt tộc và cặp Hiếu Cao Lưu Bang – Hiếu Vũ Lưu Triệt cũng là người Việt.
    Hệ quả quan trọng …nếu năm 42-43 Giao chỉ còn là đất của người Việt thì không thể có cuộc nổi dậy của chị em bà Trưng , như thế thì vua tôi Quang Vũ – Mã Viện của Đông Hán đánh ai ?.
    Cả 1 đoạn sử dài nay Sử thuyết Hùng Việt hiệu chỉnh lại :
    Năm 111 Phục ba tướng quân Lộ bác Đức tướng của Vũ đế nhà Hiếu đánh chiếm Nam Việt phế bỏ triều vua Kiến đức và tể tướng Lữ gia , chinh vì sự kiện này mà sử gọi là tướng bác đức , đức là biến âm của đế tức vua , cuộc chiến này là cuộc nội chiến diễn ra bên trong dòng họ Hùng.
    Tướng phục ba – bình sóng dữ thứ 2 nói đến trong sử là Mã Viện của nhà Đông Hán , thực ra không phải là Mã văn Uyên như tư liệu Tàu viết chữa cháy cho đỡ xấu hổ , mã viện chính xác là mã diện tức mặt ngựa , đầy đủ phải viết …‘đầu trâu mặt ngựa’ là những từ người Việt gọi bọn xâm lược nòi Hán .
    Sử thuyết Hùng Việt cho 2 cuộc khởi nghĩa bà Trưng và bà Triệu trong sử Việt chỉ là 1 và chính là cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng trong sử Trung Hoa , Cả 2 bà Trưng và bà Triệu chĩ đánh 1 kẻ thù là quân Đông Hán của Quang vũ ̣đế không phải như sử đang lưu hành chép….bà Trưng đánh quân Tây Hán còn bà Triệu cùng anh là Triệu quốc đạt khởi nghĩa đánh quân Đông Ngô .
    Quân đông Hán đã phải dừng lại chôn cột đồng đánh dấu ranh giới cực Nam của Đông Hán là Khâm châu nay thuộc Lưỡng Quảng tức lần này nhà Hán không hề chiếm Giao chỉ .
    Mãi đến khi Đào Hoàng nhà Đông Ngô hàng Tấn thì phía Đông nước ta mới rơi vào tay giặc Tàu , phần phía Tây gọi là đất Mường do hậu nhân của Mạnh Hoạch là Phạm Hùng lãnh đạo vẫn tiếp tục đánh nhau với quân Tàu .
    Có thể tư liệu có chút lầm lẫn …. người Mường chỉ có họ Mãnh không có họ Mạnh và Sử thuyết Hùng Việt cho Phạm Hùng không phải là họ và tên 1 nhân vật mà phạm hùng thiết phùng tức nói đến họ Phùng mà hậu duệ sau này là Phùng Hưng , Phùng An và Phùng Hải vua Nam chiếu .

      Hôm nay: 28/6/2024, 1:06 am