Theo chính sử hiện tại, khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra vào năm 40 khi chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách bị thái thú Tô Định của nhà Đông Hán giết chết. Trưng Trắc lập đàn ở cửa sông Hát thề đền nợ nước, trả thù nhà. Từ vùng Phong Châu Hai Bà Trưng Trắc Trưng Nhị đánh xuống Long Biên, đuổi Tô Định, chiếm được 65 thành ở vùng Lĩnh Ngoại. Trưng Trắc lên ngôi, làm vua được 3 năm thì nhà Đông Hán cử Mã Viện làm Phục Ba tướng quân dẫn quân thủy bộ tiến vào. Sau một số trận đánh lớn như ở Lãng Bạc, Hai Bà đã tử tiết tại Cấm Khê, kết thúc một cuộc khởi nghĩa hào hùng và bi tráng của 2 nữ vương.
Trong khi sử sách Trung Quốc có rất ít thông tin về khởi nghĩa của Trưng Vương tại Giao Chỉ thì trong dân gian có rất nhiều tướng lĩnh của khởi nghĩa Hai Bà Trưng được thờ ở khắp miền Bắc nước ta. Tuy nhiên, những thần tích về các tướng lĩnh của Trưng Vương lại có những thông tin rất lạ về thời điểm của cuộc khởi nghĩa. Ví dụ như thần tích đình Lạc Cầu (Giai Phạm, Yên Mỹ, Hưng Yên) kể về 2 vị thành hoàng là Trương Công Tuấn và Lý Công Mẫn là tướng Tham tán của Trưng Vương, nhưng lại bắt đầu thần tích vào thời Tây Hán, Tô Định được cử làm thái thú nước ta… Tô Định là thái thú nhà Tây Hán, vậy Hai Bà Trưng khởi nghĩa vào lúc nào?
Đình Nôm (Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên).
Cũng ở Hưng Yên có đình Đại Đồng (Văn Lâm) hay còn gọi là đình Nôm, thờ vị thành hoàng là đức thánh Tam Giang thời Hai Bà Trưng. Làng Nôm là một làng còn lưu được nhiều nét văn hóa cổ của vùng đất Phố Hiến. Đình có kiến trúc theo phong cách hội quán Phúc Kiến. Thần tích đình Nôm kể (Theo cuốn Di tích lịch sử – văn hóa Hưng Yên):
Vào thời Tây Hán ở trang Vân Mẫu thuộc đạo Bắc Giang có người con gái họ Phạm húy là Tĩnh. Năm 18 tuổi nổi tiếng về tài sắc nhưng nàng không muốn lấy chồng, chỉ một lòng theo đạo Phật. Nàng đến chùa Pháp Vân thấy cảnh chùa linh ứng phù hợp với tâm linh của mình liền xin tu ở chùa. Cò lần nàng ra sông Nguyệt Đức tắm, bỗng trời đất tối sầm, sóng gió nổi lên một con thuồng luồng quấn chặt lấy nàng. Đêm ấy nàng nằm mơ thấy mình nuốt vầng trăng vào bụng, từ đó mang thai. Đến ngày 10 tháng 2 năm Nhâm Thìn nàng sinh được người con trai khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khác thường, đặt tên là Tam Giang.
Lớn lên Tam Giang trở thành trang nam nhi dũng lược, văn võ kiêm toàn. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, Tam Giang đứng lên chiêu mộ trai tráng quanh vùng tham gia và được cử làm Điện tiền chỉ huy tướng quân…
Sau một thời gian quân của Hai Bà Trưng đánh thắng giặc Hán… Tam Giang trở về trấn sở ở trại Đồng Cân, trang Đồng Xá sinh cơ lập nghiệp. Thấy cháu gái Triệu Đà là Triệu Mỵ Nương xinh đẹp nết na, Tam Giang lấy làm vợ. Từ đó nhân dân trại Đồng Cân được sống yên vui.
Ba năm sau nhà Hán cử Mã Viện sang xâm lược. Tam Giang ra trận nhưng thế giặc mạnh, quân ta bị thua. Tam Giang cùng mẹ và vợ xuống thuyền ở bến đò sông Nguyệt Đức rồi vùng tuẫn nạn trên sông.
Hiện đình Nôm thờ thánh Tam Giang, còn bà mẹ Phạm Tĩnh và vợ ông là Triệu Mỵ Nương được thờ tại chùa Nôm. Câu đối ở nghi môn đình Nôm:
生為將死為神萬古英靈桐嶺峙
功在徴名在漢一心忠義徳江清
Sinh vi tướng tử vi thần vạn cổ anh linh Đồng lĩnh trĩ
Công tại Trưng danh tại Hán nhất tâm trung nghĩa Đức giang thanh.
Dịch:
Sinh là tướng chết là thần, vạn cổ anh linh cao Đồng Lĩnh
Công ở Trưng danh ở Hán, một lòng trung nghĩa sáng Đức Giang.
Hay câu đối khác:
六十城東洛大都漢氏山河幾可轉
百千載南朝名蹟徵家義烈豈能磨
Lục thập thành Đông lạc đại đô, Hán thị sơn hà ki khả chuyển
Bách thiên tải Nam triều danh tích, Trưng gia nghĩa liệt khải năng ma.
Dịch:
Sáu mươi thành đô lớn miền Đông, thời Hán núi sông mà lay chuyển
Trăm ngàn năm tích nổi triều Nam, nhà Trưng công nghĩa há từ nan.
Vào thời Tây Hán ở trang Vân Mẫu thuộc đạo Bắc Giang có người con gái họ Phạm húy là Tĩnh. Năm 18 tuổi nổi tiếng về tài sắc nhưng nàng không muốn lấy chồng, chỉ một lòng theo đạo Phật. Nàng đến chùa Pháp Vân thấy cảnh chùa linh ứng phù hợp với tâm linh của mình liền xin tu ở chùa. Cò lần nàng ra sông Nguyệt Đức tắm, bỗng trời đất tối sầm, sóng gió nổi lên một con thuồng luồng quấn chặt lấy nàng. Đêm ấy nàng nằm mơ thấy mình nuốt vầng trăng vào bụng, từ đó mang thai. Đến ngày 10 tháng 2 năm Nhâm Thìn nàng sinh được người con trai khôi ngô tuấn tú, tướng mạo khác thường, đặt tên là Tam Giang.
Lớn lên Tam Giang trở thành trang nam nhi dũng lược, văn võ kiêm toàn. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng, Tam Giang đứng lên chiêu mộ trai tráng quanh vùng tham gia và được cử làm Điện tiền chỉ huy tướng quân…
Sau một thời gian quân của Hai Bà Trưng đánh thắng giặc Hán… Tam Giang trở về trấn sở ở trại Đồng Cân, trang Đồng Xá sinh cơ lập nghiệp. Thấy cháu gái Triệu Đà là Triệu Mỵ Nương xinh đẹp nết na, Tam Giang lấy làm vợ. Từ đó nhân dân trại Đồng Cân được sống yên vui.
Ba năm sau nhà Hán cử Mã Viện sang xâm lược. Tam Giang ra trận nhưng thế giặc mạnh, quân ta bị thua. Tam Giang cùng mẹ và vợ xuống thuyền ở bến đò sông Nguyệt Đức rồi vùng tuẫn nạn trên sông.
Hiện đình Nôm thờ thánh Tam Giang, còn bà mẹ Phạm Tĩnh và vợ ông là Triệu Mỵ Nương được thờ tại chùa Nôm. Câu đối ở nghi môn đình Nôm:
生為將死為神萬古英靈桐嶺峙
功在徴名在漢一心忠義徳江清
Sinh vi tướng tử vi thần vạn cổ anh linh Đồng lĩnh trĩ
Công tại Trưng danh tại Hán nhất tâm trung nghĩa Đức giang thanh.
Dịch:
Sinh là tướng chết là thần, vạn cổ anh linh cao Đồng Lĩnh
Công ở Trưng danh ở Hán, một lòng trung nghĩa sáng Đức Giang.
Hay câu đối khác:
六十城東洛大都漢氏山河幾可轉
百千載南朝名蹟徵家義烈豈能磨
Lục thập thành Đông lạc đại đô, Hán thị sơn hà ki khả chuyển
Bách thiên tải Nam triều danh tích, Trưng gia nghĩa liệt khải năng ma.
Dịch:
Sáu mươi thành đô lớn miền Đông, thời Hán núi sông mà lay chuyển
Trăm ngàn năm tích nổi triều Nam, nhà Trưng công nghĩa há từ nan.
Ban thờ mẹ và vợ thánh Tam Giang ở chùa Nôm.
Vấn đề là một “Điền tiền chỉ huy tướng”, tức là chức vụ cầm đầu quân đội, của Hai Bà Trưng lại lấy vợ và cháu gái Triệu Đà. Triệu Đà là vua nước Nam Việt từ thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, thời Tây Hán. Cháu gái Triệu Đà đến năm 40 sau Công nguyên đã ngoài trăm tuổi, sao lại còn lấy chồng là đại tướng của Trưng Vương? Liên hệ giữa nhà Triệu Nam Việt và Trưng Vương là như thế nào?
Ở Hưng Yên còn một di tích khác vời thần tích nêu cụ thể về thời gian giữa nhà Triệu và Trưng Vương. Đình và đền thôn Thượng Bùi ở xã Trung Hòa, Yên Mỹ kể:
Ở động Hoa Lư, huyện An Khánh, phủ Trường An, châu Ái có người tên là Ngô Thông vốn dòng dõi thế gia. Ngô Thông làm đến chức Phủ doãn phủ Hà Trung. Lại có người tên là Phạm Cầu, người động Nga Sơn, huyện Thanh Sơn, phủ Hà Trung, làm đến chức Thái phó ở đời Triệu Ai Vương, được bổ nhiệm làm Bộ chúa Hải Dương… Hai họ Ngô Phạm thân thiết với nhau và có giao ước sẽ kết gả con cho nhau.
Ngô Công sinh con trai đặt tên là Ngọ. Nhà họ Phạm sinh hai con gái, đặt tên là Nga Nương và Châu Nương…
Năm Ngọ Công 11 tuổi cha bị quân Hán giết hại, mẹ sau cũng mất theo. Ngọ Công trở thành mồ côi, tìm đến nhà Phạm Công nương nhờ. Khi Ngọ Công 17 tuổi Phạm Công gả Nga Nương cho Ngọ Công. Lúc ất Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh Tô Định. Ngọ Công và Nga Nương đem quân tướng bái yết Trưng Vương. Trưng Vương phong cho Ngọ Công làm Than tán quốc chính thượng tướng quân Ngọ Phong Hầu và Nga Nương là Thống Lĩnh tả hữu nội vệ nữ tốt Nguyệt Nga công chúa…
Như vậy, Phạm Công người Thanh Hóa, làm chức Thái phó đời Triệu Ai Vương (117 TCN – 112 TCN). Thế mà con là Nguyệt Nga khi mười bảy đôi mươi lại là tướng thống lĩnh nội vệ của Trưng Vương. Tất cả những thần tích nêu trên ở Hưng Yên chỉ ra rõ ràng rằng có một khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra không phải vào thời Đông Hán sau Công nguyên, mà là ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt bị nhà Tây Hán diệt. Chuyện này là thế nào?
Nhà Triệu Nam Việt thành lập từ thế kỷ 2 trước công nguyên, đô đóng Phiên Ngung (Quảng Đông), truyền tới Triệu Vệ Dương Vương thì bị nhà Tây Hán tấn công. Thừa tướng ba đời nhà Triệu là Lữ Gia cùng với vua Triệu và gia quyến đã lên thuyền rời kinh đô đi về phía Tây, tức là về vùng duyên hải Giao Chỉ lúc đó. Lữ Gia và Triệu Vệ Dương Vương bị quân Hán truy sát, bị bắt và tử tiết ở cửa sông Đáy đổ ra biển. Truyền thuyết Việt chép thành chuyện Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) bị Lý Phật Tử đuổi, ra đến cửa Đại Nha thì đi ra biển mà mất. Còn thừa tướng Lữ Gia là tướng Lý Phục Man của Lý Nam Đế, sau khi tử trận đã được tùy tướng là Trương Hống Trương Hát đem về chôn cốt ở làng Giá – Yên Sở đầu sông Đáy.
Trương Hống Trương Hát chính là Nhị Trưng Vương, làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo ở Phong Châu. Nhị Trưng Vương là con gái thừa tướng Lữ Gia và là hoàng phi của Triệu Vệ Dương Vương. Vì vậy Trưng nữ vương mới lấy cửa sông Đáy (Hát Môn) làm nơi phất cờ khởi nghĩa đền nợ nước Nam Việt đã mất và trả thù nhà là vua Triệu đã bị chết ở cửa Đại Nha. Các tướng lĩnh của Trưng Vương do vậy mới có thân phụ làm quan cho nhà Triệu còn con thì cùng Trưng Vương trả thù nhà, đền nợ nước.
Thánh Tam Giang ở đình Nôm lấy cháu gái Triệu Đà tức là hoàng thân quốc thích của nhà Triệu Nam Việt và của Trưng Vương. Đức thánh do vậy nhận chức Điện tiền chỉ huy, tổng quản quân đội là hợp lý. Tam Giang thực ra là Tam Xuyên, là quận mà nhà Tần đã lập ra khi chiếm đất nhà Chu ở Giao Chỉ. Thánh Tam Giang là vị tướng cai quản vùng Tam Xuyên (Giao Chỉ) thời Trưng Vương.
Tư liệu dân gian cho thấy sử Việt đã chép thiếu khởi nghĩa của Nhị Trưng Vương dưới thời Tây Hán. Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phong Châu là nhằm phục quốc Nam Việt của nhà Triệu, nối tiếp ý chí chống Hán của thừa tướng Lữ Gia. Quốc thống và dòng dõi nhà Triệu, triều đại xưng Nam đế, xưng Việt đế đầu tiên trong lịch sử, không mất mà còn nối tiếp bởi các hoàng phi họ Lữ và sau đó là nước Nam Triệu ở vùng Tây Bắc Việt.
Ở Hưng Yên còn một di tích khác vời thần tích nêu cụ thể về thời gian giữa nhà Triệu và Trưng Vương. Đình và đền thôn Thượng Bùi ở xã Trung Hòa, Yên Mỹ kể:
Ở động Hoa Lư, huyện An Khánh, phủ Trường An, châu Ái có người tên là Ngô Thông vốn dòng dõi thế gia. Ngô Thông làm đến chức Phủ doãn phủ Hà Trung. Lại có người tên là Phạm Cầu, người động Nga Sơn, huyện Thanh Sơn, phủ Hà Trung, làm đến chức Thái phó ở đời Triệu Ai Vương, được bổ nhiệm làm Bộ chúa Hải Dương… Hai họ Ngô Phạm thân thiết với nhau và có giao ước sẽ kết gả con cho nhau.
Ngô Công sinh con trai đặt tên là Ngọ. Nhà họ Phạm sinh hai con gái, đặt tên là Nga Nương và Châu Nương…
Năm Ngọ Công 11 tuổi cha bị quân Hán giết hại, mẹ sau cũng mất theo. Ngọ Công trở thành mồ côi, tìm đến nhà Phạm Công nương nhờ. Khi Ngọ Công 17 tuổi Phạm Công gả Nga Nương cho Ngọ Công. Lúc ất Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh Tô Định. Ngọ Công và Nga Nương đem quân tướng bái yết Trưng Vương. Trưng Vương phong cho Ngọ Công làm Than tán quốc chính thượng tướng quân Ngọ Phong Hầu và Nga Nương là Thống Lĩnh tả hữu nội vệ nữ tốt Nguyệt Nga công chúa…
Như vậy, Phạm Công người Thanh Hóa, làm chức Thái phó đời Triệu Ai Vương (117 TCN – 112 TCN). Thế mà con là Nguyệt Nga khi mười bảy đôi mươi lại là tướng thống lĩnh nội vệ của Trưng Vương. Tất cả những thần tích nêu trên ở Hưng Yên chỉ ra rõ ràng rằng có một khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra không phải vào thời Đông Hán sau Công nguyên, mà là ngay sau khi nhà Triệu Nam Việt bị nhà Tây Hán diệt. Chuyện này là thế nào?
Nhà Triệu Nam Việt thành lập từ thế kỷ 2 trước công nguyên, đô đóng Phiên Ngung (Quảng Đông), truyền tới Triệu Vệ Dương Vương thì bị nhà Tây Hán tấn công. Thừa tướng ba đời nhà Triệu là Lữ Gia cùng với vua Triệu và gia quyến đã lên thuyền rời kinh đô đi về phía Tây, tức là về vùng duyên hải Giao Chỉ lúc đó. Lữ Gia và Triệu Vệ Dương Vương bị quân Hán truy sát, bị bắt và tử tiết ở cửa sông Đáy đổ ra biển. Truyền thuyết Việt chép thành chuyện Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục) bị Lý Phật Tử đuổi, ra đến cửa Đại Nha thì đi ra biển mà mất. Còn thừa tướng Lữ Gia là tướng Lý Phục Man của Lý Nam Đế, sau khi tử trận đã được tùy tướng là Trương Hống Trương Hát đem về chôn cốt ở làng Giá – Yên Sở đầu sông Đáy.
Trương Hống Trương Hát chính là Nhị Trưng Vương, làm nên cuộc khởi nghĩa tiếp theo ở Phong Châu. Nhị Trưng Vương là con gái thừa tướng Lữ Gia và là hoàng phi của Triệu Vệ Dương Vương. Vì vậy Trưng nữ vương mới lấy cửa sông Đáy (Hát Môn) làm nơi phất cờ khởi nghĩa đền nợ nước Nam Việt đã mất và trả thù nhà là vua Triệu đã bị chết ở cửa Đại Nha. Các tướng lĩnh của Trưng Vương do vậy mới có thân phụ làm quan cho nhà Triệu còn con thì cùng Trưng Vương trả thù nhà, đền nợ nước.
Thánh Tam Giang ở đình Nôm lấy cháu gái Triệu Đà tức là hoàng thân quốc thích của nhà Triệu Nam Việt và của Trưng Vương. Đức thánh do vậy nhận chức Điện tiền chỉ huy, tổng quản quân đội là hợp lý. Tam Giang thực ra là Tam Xuyên, là quận mà nhà Tần đã lập ra khi chiếm đất nhà Chu ở Giao Chỉ. Thánh Tam Giang là vị tướng cai quản vùng Tam Xuyên (Giao Chỉ) thời Trưng Vương.
Tư liệu dân gian cho thấy sử Việt đã chép thiếu khởi nghĩa của Nhị Trưng Vương dưới thời Tây Hán. Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phong Châu là nhằm phục quốc Nam Việt của nhà Triệu, nối tiếp ý chí chống Hán của thừa tướng Lữ Gia. Quốc thống và dòng dõi nhà Triệu, triều đại xưng Nam đế, xưng Việt đế đầu tiên trong lịch sử, không mất mà còn nối tiếp bởi các hoàng phi họ Lữ và sau đó là nước Nam Triệu ở vùng Tây Bắc Việt.