Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Gallery


Vài chuyện về vấn đề lãnh thổ . Empty

November 2024

MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
252627282930 

Calendar Calendar

Khách thăm



Vài chuyện về vấn đề lãnh thổ . Flags_1



    Vài chuyện về vấn đề lãnh thổ .

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1197
    Join date : 31/01/2008

    Vài chuyện về vấn đề lãnh thổ . Empty Vài chuyện về vấn đề lãnh thổ .

    Bài gửi by Admin 21/9/2014, 3:13 pm

    Kinh Thư thiên Vũ cống chép về lãnh thổ nhà Hạ ở thời điểm Đại Vũ chia đất thành 9 châu : “Tây trùm Lưu Sa đông chí Đông Hải” , sách không đề cập tới đất 2 phía  Bắc và Nam .

    Đông hải là biển đông  là vùng biển lịch sử của người Việt , biển Đông đã ăn sâu trong tâm thức người Việt từ xa xưa  thể hiện rất nhiều trong sử thi dân gian hay ca dao tục ngữ .

    Do chữ sa là cát nên Lưu sa có người hiểu là bãi cát Lưu sa , thực ra thì Lưu sa thiết La ; la→lê→Ly→liêu là tên gọi tộc người cư trú lâu đời ở miền Tây  nam Trung quốc đặc biệt tập trung ở Qúy châu và Bắc Quảng Tây còn được gọi là Ai lao di ( Âu ) cũng là người Liêu - Liêu tử ( liêu tử thiết Lửa ) .

    Sử thuyết Hùng Việt cho ban đầu nước họ Hùng có 2 phần lãnh thổ là châu Đào và Đường hay Việt Thường ,  người La ở châu Đào và người Kênh – Kinh – Canh sống ở đất Đường - Việt Thường (La và Kinh là 2 cực bắc Nam xưa của la bàn phong thủy) ,  ngày nay La là người Chiêm thành , Kênh – Canh là dân đa số của nước Việt Nam . 9 châu của Đại vũ là vùng đất Bắc Việt , Quảng Tây và Nam Qúy châu ngày nay  sang thời vua Khải mới mở rộng tới Quảng Đông , nhà Hạ trung hưng đô ở Dương thành Quảng châu , đất Hạ gốc gọi là Tây Hạ , đất mới mở rộng là Đông Hạ , qúa về cực đông  là Triết giang là đất  dành riêng thờ Đại Vũ tức Hùng Việt vương – Tuấn lang (vì thế sau có nước Việt) . Đất đai Tây hạ thời Tần là phần lớn quận Tam xuyên và Đông Hạ là quận Đông hải , Tây Hạ Ngô vương Quyền gọi là Giao Châu  Đông Hạ là Quảng châu đúng theo nghĩa đất gốc và đất mới mở rộng (quảng là mở rộng), thời nhà Đường Tây hạ là Tĩnh hải quân , Đông Hạ là Thanh hải quân ( theo Dịch học thì Thanh hải và Đông hải  là 1).

    Qua đời Thương tư liệu nói rõ hơn :

    Sách Hoài Nam Tử của Lưu An trong phần cương vực nhà Thương chép : “ Tả Đông Hải, hữu Lưu Sa, Tiền Giao Chỉ, Hậu Hàm đô”.Xét trên mặt chữ thì  Phía Tây và phía Đông giống đất thời nhà Hạ , thực ra phía Tây vẫn là Lưu sa – La tức đất của người La  ở Qúy châu – Quảng tây nhưng Đông hải đã mang nội hàm hoàn toàn khác , Đông hải của thời Đại vũ là biển Đông tức biển phía đông đất Giao chỉ còn Đông hải nhà Thương là vùng biển  ngày nay gọi là biển Hoa đông   .

    Đoạn sử ngắn mô tả hướng Bắc Nam – tiền hậu có thể luận xét theo 2 hướng :

    Giao Chỉ theo sách Dư Địa Chí của Cố Dã Vương  đời Chu là Lạc Việt ,  hiện nay thường hiểu cụm từ ‘Tiền Giao chỉ’ theo nghĩa mặt trước giáp với đất Giao chỉ nhưng xét ra làm gì có chữ giáp nào đâu nên  ‘tiền Giao chỉ’ chính xác phải hiều …nếu quay mặt về hướng Xích đạo thì phần trước  lãnh thổ nhà Thương là Giao chỉ giống như khi nói mặt tiền nhà tức cái mặt tiền ấy không ở ngoài mà vẫn thuộc về căn nhà .

    Hậu Hàm đô , Hàm đô ở đây không phải là tên riêng , Hàm là vị mặn trong Ngũ vị ,là vị của phía Nam xưa tương đương với vị trí Huyền thiên tức phía Bắc ngày nay …, hàm đô nghĩa là thủ phủ phía Nam (xưa) , cụ thể là địa điểm nào trên bản đồ thì không xác định được ,  3 từ ‘hậu hàm đô’ chỉ định rõ  : ‘hàm đô’ vẫn nằm trong lãnh thổ không phải là …giáp với , nếu nằm ngoài lãnh thổ tức thuộc đất của lân bang  thì không còn là hàm đô – trung tâm phía Nam nữa  …chính vế sau này đã giúp khẳng định ý của câu  ‘tiền Giao chỉ’ xét trước .

    Theo hướng này thì rõ ràng Thiên hạ  thời Hạ và Thương  là của người Việt , về chủng tộc thuộc phân chủng Nam Mongoloid dĩ nhiên không dính dáng gì tới người Hán nhánh Mongoloid  phương Bắc , Sinh học phân tử đặc biệt là công nghệ AND đã xác định như thế , Khảo cổ học đi xa hơn khi tìm ra nền văn minh Lương chữ và  2 trung tâm của Thiên hạ thời Thương  ở 2 bờ Bắc -Nam Trường giang  là thành Tân Can và Bàn Canh long thành  rất có thể đó là những cố đô huy hoàng 1 thời  .

    Hướng khác ;Về  địa lý nếu xét  đúng theo chính sử Trung hoa  thì :

    “ Tả Đông Hải, hữu Lưu Sa, Tiền Giao Chỉ, Hậu Hàm đô” chỉ định lãnh thổ Trung quốc thời nhà Thương :

    Tả Đông Hải nghĩa là phía Đông giáp Bột hải , phía Tây  trùm sa mạc Gobi (Lưu sa) , hậu Hàm đô nghĩa là thủ phủ phía Nam chung chung (rất có thể là Mã ấp?) nhưng vế ‘tiền Giao chỉ”  là sự chỉ định  rõ rệt : về hướng Xích đạo thì lãnh thổ nhà Thương giáp với đất Giao chỉ mà theo chính sử thì thời Thương Trung hoa chỉ mới vượt Hoàng Hà … như vậy hóa ra đất Giao chỉ thời ấy là  miền mênh mông thiên địa trải từ Bắc việt vượt qúa Trường giang xa về hướng Bắc ngày nay ?, không hiểu sử gia Trung quốc xưa vô ý hay cố tình đã chỉ ra vùng đất Giao chỉ  hoàn toàn trùng đúng với địa bàn của dòng Bách Việt .

    Sự chỉ định theo Hướng thứ 2 không hợp lí , vì ngay từ gốc  nghĩa của từ Giao trong Giao chỉ đã phủ định 1 miền mênh mông như thế . Trong Văn minh cổ Trung hoa 1 miền đất luôn là 1 mặt bằng hình vuông có 2 đường kẻ theo chiều Nam – Bắc và Đông – Tây , nơi 2 đường kẻ Giao nhau gọi là Giao chỉ , đất Giao chỉ , miền giao chỉ thực nghĩa là vùng trung tâm tương đương với các từ trung châu ,trung nguyên , trung thổ ngày nay vì thế nếu đã là cả thiên hạ như thế  thì xét về mặt ý nghĩa không thể là đất Giao chỉ  .

    Nước lập trên đất Giao chỉ gọi là Trung quốc chung quanh là chư Hầu , trên nguyên tắc điều này  đúng ở  thời nhà Châu là thời khởi sự phân phong thiên hạ thành hàng trăm chư hầu chung quanh Trung quốc (nền tảng hình thành trăm dòng tộc Việt) về  sau đất không có chân và không nở ra được còn người có chân nên Trung quốc  có thể nay ở chỗ này mai  ở chỗ khác  không còn mang ý nghĩa trung tâm theo địa lý nữa mà thiên về ý ‘nòng cốt’ tức tộc người chính nhiều hơn , Trung quốc ở đâu thì người ở đấy gọi là Hoa hạ , sống ở 4 phương chư Hầu gọi là Di hạ , Trung quốc Hoa hạ giản lược thành Trung hoa xét như  thế Trung Hoa không là tên riêng của 1 quốc gia hay dòng tộc nào xuyên suốt qúa trình lịch sử Thiên hạ ; từ Trung Hoa hiện nay xuất hiện sau cuộc chính biến Tân hợi  mang nội hàm hoàn toàn khác với nguyên thủy , điều này không chỉ dân gian mà ngay giới bác học cũng vẫn hay lầm lẫn không phân biệt rõ rệt .

    Gần đây trên mạng internet có đám gà mờ công bố điều tra khoa (không) học đưa ra điều nhận (mà không) xét cực kỳ bừa bãi  …người Việt Nam  là 1 trong 2 dân tộc đóng góp ít nhất cho văn minh nhân loại, nói trắng ra là chẳng tích sự gì …, chẳng buồn và phản bác làm chi , đấy chỉ là đám học chưa tới nơi lại bị phường Lưu manh bịt mắt nên có thấy gì đâu , mặt trời ngay trước mắt vẫn chỉ thấy  tối đen 1 màu …Xa hơn nữa nhiều kẻ đã dựa vào mớ tư liệu lịch sử hổ lốn ‘Càn long chế phẩm’ mà bôi đen lịch sử Việt nam , bêu xấu Việt tộc khơi mào cho hằn thù dân tộc trên bán đảo Đông dương … sự thực ra sao ?.

    Thiên Nam ngữ lục đoạn nói về khởi nghĩa của Khu Liên như sau:


    Khu Linh người nước Nam ta


    Bình sinh tập dụng can qua một mình

    Bèn vào Tượng quận dấy binh

    Toan làm sự cả công danh ở đời.

    Khu Linh ông tổ khai sinh ra nước Lâm ấp trong thơ không phải là  tên 1 nhân vật lịch sử : Khu Linh thiết Kinh chỉ ra đấy là cuộc  khởi nghĩa của người tộc Kinh  nước Nam , theo chính sử thì  nước Lâm ấp sau được các vua dòng họ Phạm là con cháu  bên mẹ Khu linh cai quản ; đây là lối dùng chữ lắt léo rất độc đáo …Khu Linh là tộc Kinh , vua họ Phạm của Lâm ấp là con cháu của mẹ khu linh …suy ra  không là anh em ruột cùng mẹ với người Kinh thì là gì ? , Kinh – Canh và La chỉ là Bắc và Nam 2 cực của 1 thực thể lưỡng lập tạo ra La bàn , La chính là tên gọi của người  Chiêm thành , làm gì có chuyện người 1 nhà chiếm nước của nhau . Nếu muốn có thể cặn kẽ hơn …nói thẳng 2 triều đại sau cùng Lê và Nguyễn của nước Việt Nam đều do những ông vua người Chăm hay ít ra là người gốc Chăm lập nên , Tư liệu Trung quốc gọi  người Nam Á và indonesien không cùng nền tảng văn hóa với họ là tộc Điểu hay Cầm (Kiềm) , Cầm chính là Cam tên nước  kí âm la tinh lại phạn ngữ thành ra Campapura  ; điểu - cầm là chim , chim biến thành Chăm , trong nền văn minh Dịch học chim chỉ tộc người sống ở vùng nóng bức cận Xích đạo , phía ngược lại tượng trưng bởi con Nai , nai = lộc =Lạc=lục  (Lạc Việt , Lộc tục – Lục tộc) như đã khắc trên trống đồng , Cả họ Lê họ Trịnh và họ Nguyễn của khởi nghĩa Lam sơn đều xuất phát từ Cầm châu bên Lào ngày nay  nhưng rõ hơn hết là Lê Lợi thường được gọi là ông đạo Chăm , sinh ở làng kẻ Chăm khởi nghĩa ở núi Chăm (Lam sơn cũng gọi là núi Chăm) thì  làm sao nói khác đi được trừ khi cố tình bưng mất bịt tai  . Chính người nhà Thanh đã viết …nước Quảng Nam tức nước của những vua gốc Chăm lãnh thổ gồm các phần đất Trung Việt , Lộc lại (Lào) , Giản phố trại ( Campuchea ) và Côn đại Ma (Phù Nam ?) có tiềm lực mạnh hơn Giao chỉ đô ở Đông kinh (của người Kinh) nhiều và qủa thực vua Lê – chúa Nguyễn đã thống nhất Quảng Nam và Giao chỉ thu giang sơn về 1 mối ….hỏi đấy có phải là …Giao chỉ bị ngoại nhân xâm lăng  diệt quốc ? ,câu trả lời đương nhiên là không vậy thì xin đừng đặt vấn đề ngược lại nữa .

    ...Người Việt ơi trái tim luôn nồng cháy nhưng cái đầu phải lạnh lùng nhìn nhận sự việc 1 cách căn cơ khoa học …, mới đây thôi  hàng trăm trống đồng đã tìm thấy ở  Tây nguyên , Trung bộ và Campuchea tức trên lãnh thổ Lâm ấp - Phù Nam xưa . Công dụng thiêng liêng nhất của trống đồng là dùng cho lễ tế trời và thờ kính tổ tiên , đấy là nét đặc trưng của văn minh Hùng Việt nay đã nâng lên thành 1 đạo , đạo hiếu , đạo thờ cúng ông bà tổ tiên không dân tộc nào khác có , xin đừng vội vàng dễ dãi cho là hàng trao đổi mua bán  , không theo đạo thờ và tế lễ cúng ông bà thì mua trống đồng về làm gì ?, nói đến trống đồng Quẻ Lôi địa Dự của Kinh Dịch viết : “Lôi xuất địa phấn ; tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức , ân tiến chi thượng đế dĩ phối tổ khảo” ý nhĩa rất rõ …đấy là 1 loại nhạc cụ dùng trong các cuộc tế trời và thờ  cúng tổ tiên  ;một khi đã dùng trống đồng  thờ kính cùng 1 tổ tiên thì là gì của nhau ?.

    Sử thuyết Hùng Việt đã chỉ ra Phù nam – phu nan chính là đất Phan (phu nan thiết phan ) của người họ Phan dòng  Hùng con cháu  của Tất Công vị ‘toàn quyền’ thứ 3 cai quản đất phía Đông nhà Châu buổi ban đầu sau 2 ông Châu công và quân Trần , nước Phan là sự thực lịch sử  dấu tích còn rõ ở đất Phan rang tức Phan ranh song song với Cam ranh đánh dấu biên giới 2 nước Cam và Phan  trên bản đồ Đông dương . Phu nan chỉ là trò quái qủy thay tên thực là Phan (nay kí âm la tinh là pan pan tên quốc gia cổ trên bán đảo Mã Lai) bằng phiên thiết Hán văn tạo ra mớ bòng bong lịch sử không còn biết đâu mà lần tìm đến cội nguồn , liệu việc Chân lạp chiếm Phù nam có thể coi là … người họ Phan Việt Nam đã bị người Campuchea diệt quốc ? . Người họ Phan và những người đang xưng là Khơme krom liệu ai là người đòi nợ , ai là người phải trả món nợ lịch sử .

    Vì tham vọng chính trị và dựa vào mớ thông tin của những cái miệng nặng sự cay cú trả thù cả Tây lẫn Tàu mớm cho  bất chấp đạo lí  biến anh em ruột thịt thành kẻ thù ,lấy oán trả ân chỉ nhằm kiếm chác chút lợi lộc … nếu sự khích động tạo ra  diễn biến vượt ngoài tầm kiểm sóat đưa đến hậu qủa khôn lường về cả  vật chất và tinh thần thì đấy là tội ác trời không dung đất không tha  .

      Hôm nay: 21/11/2024, 4:45 pm