Sơ phác về Đông Nam Á
Nói đến Đông Nam Á ngày nay người ta thường hiểu đấy là số cộng của lãnh thổ và dân số 10 nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, một vùng với diện tích 4 triệu km2 và gần 500 triệu dân. Các nước Đông Nam Á trước đây không đóng vai trò quan trọng trên thế giới, người ta chỉ phảng phất biết đấy là vùng có nhiều hương liệu quí và thời cận đại là vùng nguyên vật liệu cung cấp cho các nhà máy ở Phương Tây.
Thời mà Đông Nam Á chỉ được thiên hạ biết đến là vùng ở giữa Trung Hoa và ấn Độ đã qua rồi. Trung Hoa và Ấn Độ là 2 anh chàng khổng lồ chiếm hơn 1/3 dân số nhân loại, lại là 2 trung tâm văn minh cổ đại của loài người nên cái bóng của họ to quá khiến Đông Nam Á mất tăm, mất tích hay khá lắm thì cũng chỉ được coi là vùng phụ thuộc của bán đảo Trung – Ấn, vùng ảnh hưởng của văn hoá, văn minh Trung Hoa và Ấn Độ mà thôi. Nhóm từ Đông Nam Á ta quen dùng chỉ là địa giới hành chính, thực ra bé hơn nhiều so với vùng Đông Nam Á thực sự. Nếu coi Đông Nam Á như một khu vực địa lý khí hậu thì nó đồng nghĩa với khu vực châu Á gió mùa. Còn coi đó là khu vực với khía cạnh nhân chủng – dân tộc học thì Đông Nam Á là địa bàn sinh tụ từ cổ đại đến nay của giống mà khoa nhân chủng học gọi là Mongoloit phương Nam và gồm 2 nhánh:
- Nhánh Nam Á.
- Nhánh Nam đảo hay Indonesien
Đông Nam Á thực sự Phía tây bắc giáp với bắc Ấn và cao nguyên Khang Tạng tức tới vùng Tứ Xuyên của Trung Hoa hiện nay, phía đông bắc đến tận bờ nam Dương Tử. Thực vậy, nếu hiểu theo nghĩa là một khu vực văn hoá, văn minh thì Đông Nam Á có 4 vùng địa lý tự nhiên:
- Đông Nam Á hải đảo - Đông Nam Á lục địa
- Tây nam Trung Hoa - Đông nam Trung Hoa
Tới nay ánh sáng khoa học chưa rọi đến quá khứ đông nam á, ngay cả những điều cơ bản người ta cũng còn rất lơ mơ như sự ra đời và tồn tại của quốc gia mà sách vở Tàu gọi là nước Phù nam; lãnh thổ, tộc người , tương quan lịch sử-văn hoá với 2 nền văn hoá kề cận là Trung hoa và Ấn độ mãi tới nay vẫn chưa thấu suốt.
Tại sao ngoài vùng gọi là văn hoá Trung hoa phần còn lại của Đông nam á lại đậm nét văn hoá Ấn ?... chỉ trừ Việt nam và Phillipin 3 tôn giáo có gốc ở tiểu lục địa Ấn độ là Phật giáo, hồi giáo và ấn giáo đã trùm phủ khắp Đông nam á cả lục địa lẫn hải đảo, sự việc diễn tiến ra sao ? chưa có câu trả lời, có chăng lại là vài dòng truyền thuyết sặc mùi thực dân đế quốc như...có đoàn người đến từ tiểu lục địa Ấn độ và đã xảy ra 1 trận đánh kết qủa ...nữ chúa Phù nam còn ở truồng đã thua phải giao ngôi báu và trở thành vợ kẻ chiến thắng..., quả thực sự cai trị cuả dòng Aryan trên đất đông nam á nghịêt ngã hơn nhiều so với sự cai trị của dòng Man trên đất Trung Hoa, chí ít thì người Trung hoa cũng còn nhớ có ông Bàn cổ,bào hy, Thần nông rồi Nghiêu Thuấn Vũ.v.v., cũng còn biết đến âm dương- ngũ hành trái lại trong vùng thống trị của văn hoá Aryan thì tất cả cứ như là ở dưới lỗ nẻ chui lên vậy, chẳng còn biết mình ở đâu ra nữa...
Khảo cổ học cùng nhiều ngành khoa học khác đang vén dần bức màn quá khứ của Đông Nam Á và khám phá: Thực kỳ diệu! Từ rất xa xưa khoảng 10.000 năm nay, ĐNA là một thể thuần nhất trên mọi khía cạnh văn hoá, văn minh và tộc người (dĩ nhiên ta hiểu theo ý “đại đồng tiểu dị”) vậy mà cho tới tận hôm nay vẫn không thấy một tín hiệu nào, một dòng chữ nào của thời xa xưa nói về việc đã từng tồn tại trong quá khứ một dân tộc gọi Đông Nam Á? Sự thực có như thế không? Chính sự đồng nhất này khiến chúng ta không thể nghĩ khác được là: Tất cả ra đời từ một khuôn đúc, sự sống chung trong một thời gian dài lâu đã tạo thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt mà bây giờ chúng ta gọi là văn hoá – văn minh Đông Nam Á không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam và các dân tộc Đông Nam Á khác có cả một kho tàng truyện cổ tích lịch sử và phương pháp truyền đạt để bảo tồn những cổ tích đó là “văn nói”, là các buổi kể chuyện “khan” quanh đống lửa của núi rừng Tây Nguyên. Tổ tiên người Việt biết rất rõ về sức sống của “văn nói” thể hiện qua câu ca dao:
“Trăm năm bia đá cũng mòn
ngàn năm bia miệng vẫn cò trơ trơ”
Một quốc gia hay một cộng đồng Đông Nam Á thời xa xưa chắc chắn đã tồn tại và tan vỡ, trước cảnh nước mất nhà tan, cha mẹ thì gươm kề cổ, con cái thì “lên rừng tìm ngà voi, xuống bể mò ngọc trai” đem dâng nộp cho kẻ thống trị, trong tình cảnh đó sẽ không thể có sách sử bằng chữ viết để lưu truyền ,vì chỉ 1 hay 2 thẻ tre, một vài chữ sẽ đưa đến án tru di...như Càn long đã giết hại cả nhà thầy dạy học mình., Cổ nhân không có cách nào khác là ký thác những gì muốn nói với đời sau vào những câu chuyện kể bằng lời, đời cha kể chuyện cổ tích cho đời con, đời con thuộc nằm lòng và kể lại cho đời cháu … cứ như thế mà tiếp tục đến ngàn năm sau rồi ra sẽ có ngày vận nước thoát cơn bỉ cực, con cháu sẽ giải mã được các bức điệp văn đánh đi từ quá khứ và tìm lại được quê cha đất tổ và nguồn gốc đích thực của dòng giống mình. Thực may mắn vô cùng ta đã tìm được chiếc chìa khoá để giải mã các tín điệp của tổ tiên đó chính là Dịch Lý. Thí dụ: ngay ở đoạn trên có câu: “lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai…” khi dùng các mã tin của Dịch Lý để giải ta xác định ngay được: Quê cha đất tổ của ta phía tây có rất nhiều voi, phía đông là biển hoàn toàn khớp với ý nghĩa của chữ “nguyên hình” là Tịnh chỉ hướng tây và Long chỉ hướng đông, như thế không thể ở nơi nào khác ngoài miền trung Việt Nam hiện nay.
Sự trùng khớp hoàn toàn này cũng chính là dấu ấn mà tổ tiên người Việt Nam đã đóng lên Kinh Dịch, xác nhận chủ quyền dân tộc trên bản kinh vô giá, độc nhất vô nhị trên thế gian này. Và chỉ có người Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng khi đã nối thông được với ngọn ngành của dân tộc mình, tiếp thu được linh khí ngàn đồi tổ tiên truyền về mới có thể thấu hiểu Kinh Dịch – tìm được những giá trị vô song tàng chứa trong đó để vận dụng kiến tạo đời sống hạnh phúc cho chính mình và cho anh em, cơn bỉ cực của dân tộc đã kéo dài đến hàng ngàn năm. Phải chăng những ngày tháng này đây là thời khắc linh thiêng, là điểm khởi đầu của thời phục hưng, thời huy hoàng của Đông Nam Á.
2 . Các vua trong truyền thuyết Việt Nam và Trung Hoa cổ
a. Việt Nam
Dựa theo các cổ tích đã dẫn, ta tìm thấy tên các bậc quân vương đời Thái cổ:
1. Viêm Đế họ Thần Nông
2. Vụ Tiên
3. Động Đình Quân
4. Hùng vương
5. Đế Minh
6. Đế Nghi
7. Kinh Dương Vương
8. Lộc Tục
9.Sơn tinh
10. Lạc Long Quân
11. Sùng lãm
12. An Dương Vương – Thục Phán
b. Các vị vua Thái cổ Trung Hoa
*- theo sách Lã thị xuân thu :
Qua loạt bài trước ta đã biết về 4 vị vua Thái Cổ của Trung Hoa:
1. Thái Cao – Mộc Đức – mùa xuân số 8, phương Đông – (màu xanh)
2. Viêm Đế – Hoả Đức – mùa hạ – phương Nam (?) số 7 – (màu đỏ)
3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – số 9 – (màu trắng)
4. Xuyên Húc – Thủy Đức – mùa đông – phương Bắc (?) – số 6 – màu đen
Các số 6 – 7 – 8 – 9 là số chỉ bốn hướng chính của Hà Thư (Đồ); các đức là đức của Ngũ Hành, các thần cũng là thần của Ngũ Hành. Ở phần trích trong Lã Thị Xuân Thu ở trên không thấy nói đến Cửu Thiên, nhưng xem xét thấy rất tương hợp vì tất cả đều là mã tin của Dịch Lý nên có sự nhất quán
Ta thấy sự tương ứng các vị trí:
Thái Cao – Thanh Thiên (xanh)
Viêm Đế – Viêm Thiên (nóng, bức)
Thiếu Hạo – Hạo Thiên (tỏ, rõ)
Xuyên Húc – Huyền Thiên (đen, mờ)
* . Căn cứ vào Cổ Thư Trung Hoa, ta có các vị vua:
1. Bàn Cổ
2. Tam Hoàng: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng (dị bản: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế)
3. Ngũ Đế: có đến 4 thuyết:
* Thái Hạo – Hoàng đế – Thần Nông – Thiếu Hạo – Chuyên Húc.
* Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc
* Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Chí (theo Từ Hải)
* Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn (theo Tsui Chi)
… nhiều sách có nhắc đến Đế Ai, Đế Lỗ …. thật là rối rắm.
Nói đến Đông Nam Á ngày nay người ta thường hiểu đấy là số cộng của lãnh thổ và dân số 10 nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, một vùng với diện tích 4 triệu km2 và gần 500 triệu dân. Các nước Đông Nam Á trước đây không đóng vai trò quan trọng trên thế giới, người ta chỉ phảng phất biết đấy là vùng có nhiều hương liệu quí và thời cận đại là vùng nguyên vật liệu cung cấp cho các nhà máy ở Phương Tây.
Thời mà Đông Nam Á chỉ được thiên hạ biết đến là vùng ở giữa Trung Hoa và ấn Độ đã qua rồi. Trung Hoa và Ấn Độ là 2 anh chàng khổng lồ chiếm hơn 1/3 dân số nhân loại, lại là 2 trung tâm văn minh cổ đại của loài người nên cái bóng của họ to quá khiến Đông Nam Á mất tăm, mất tích hay khá lắm thì cũng chỉ được coi là vùng phụ thuộc của bán đảo Trung – Ấn, vùng ảnh hưởng của văn hoá, văn minh Trung Hoa và Ấn Độ mà thôi. Nhóm từ Đông Nam Á ta quen dùng chỉ là địa giới hành chính, thực ra bé hơn nhiều so với vùng Đông Nam Á thực sự. Nếu coi Đông Nam Á như một khu vực địa lý khí hậu thì nó đồng nghĩa với khu vực châu Á gió mùa. Còn coi đó là khu vực với khía cạnh nhân chủng – dân tộc học thì Đông Nam Á là địa bàn sinh tụ từ cổ đại đến nay của giống mà khoa nhân chủng học gọi là Mongoloit phương Nam và gồm 2 nhánh:
- Nhánh Nam Á.
- Nhánh Nam đảo hay Indonesien
Đông Nam Á thực sự Phía tây bắc giáp với bắc Ấn và cao nguyên Khang Tạng tức tới vùng Tứ Xuyên của Trung Hoa hiện nay, phía đông bắc đến tận bờ nam Dương Tử. Thực vậy, nếu hiểu theo nghĩa là một khu vực văn hoá, văn minh thì Đông Nam Á có 4 vùng địa lý tự nhiên:
- Đông Nam Á hải đảo - Đông Nam Á lục địa
- Tây nam Trung Hoa - Đông nam Trung Hoa
Tới nay ánh sáng khoa học chưa rọi đến quá khứ đông nam á, ngay cả những điều cơ bản người ta cũng còn rất lơ mơ như sự ra đời và tồn tại của quốc gia mà sách vở Tàu gọi là nước Phù nam; lãnh thổ, tộc người , tương quan lịch sử-văn hoá với 2 nền văn hoá kề cận là Trung hoa và Ấn độ mãi tới nay vẫn chưa thấu suốt.
Tại sao ngoài vùng gọi là văn hoá Trung hoa phần còn lại của Đông nam á lại đậm nét văn hoá Ấn ?... chỉ trừ Việt nam và Phillipin 3 tôn giáo có gốc ở tiểu lục địa Ấn độ là Phật giáo, hồi giáo và ấn giáo đã trùm phủ khắp Đông nam á cả lục địa lẫn hải đảo, sự việc diễn tiến ra sao ? chưa có câu trả lời, có chăng lại là vài dòng truyền thuyết sặc mùi thực dân đế quốc như...có đoàn người đến từ tiểu lục địa Ấn độ và đã xảy ra 1 trận đánh kết qủa ...nữ chúa Phù nam còn ở truồng đã thua phải giao ngôi báu và trở thành vợ kẻ chiến thắng..., quả thực sự cai trị cuả dòng Aryan trên đất đông nam á nghịêt ngã hơn nhiều so với sự cai trị của dòng Man trên đất Trung Hoa, chí ít thì người Trung hoa cũng còn nhớ có ông Bàn cổ,bào hy, Thần nông rồi Nghiêu Thuấn Vũ.v.v., cũng còn biết đến âm dương- ngũ hành trái lại trong vùng thống trị của văn hoá Aryan thì tất cả cứ như là ở dưới lỗ nẻ chui lên vậy, chẳng còn biết mình ở đâu ra nữa...
Khảo cổ học cùng nhiều ngành khoa học khác đang vén dần bức màn quá khứ của Đông Nam Á và khám phá: Thực kỳ diệu! Từ rất xa xưa khoảng 10.000 năm nay, ĐNA là một thể thuần nhất trên mọi khía cạnh văn hoá, văn minh và tộc người (dĩ nhiên ta hiểu theo ý “đại đồng tiểu dị”) vậy mà cho tới tận hôm nay vẫn không thấy một tín hiệu nào, một dòng chữ nào của thời xa xưa nói về việc đã từng tồn tại trong quá khứ một dân tộc gọi Đông Nam Á? Sự thực có như thế không? Chính sự đồng nhất này khiến chúng ta không thể nghĩ khác được là: Tất cả ra đời từ một khuôn đúc, sự sống chung trong một thời gian dài lâu đã tạo thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt mà bây giờ chúng ta gọi là văn hoá – văn minh Đông Nam Á không phải ngẫu nhiên mà Việt Nam và các dân tộc Đông Nam Á khác có cả một kho tàng truyện cổ tích lịch sử và phương pháp truyền đạt để bảo tồn những cổ tích đó là “văn nói”, là các buổi kể chuyện “khan” quanh đống lửa của núi rừng Tây Nguyên. Tổ tiên người Việt biết rất rõ về sức sống của “văn nói” thể hiện qua câu ca dao:
“Trăm năm bia đá cũng mòn
ngàn năm bia miệng vẫn cò trơ trơ”
Một quốc gia hay một cộng đồng Đông Nam Á thời xa xưa chắc chắn đã tồn tại và tan vỡ, trước cảnh nước mất nhà tan, cha mẹ thì gươm kề cổ, con cái thì “lên rừng tìm ngà voi, xuống bể mò ngọc trai” đem dâng nộp cho kẻ thống trị, trong tình cảnh đó sẽ không thể có sách sử bằng chữ viết để lưu truyền ,vì chỉ 1 hay 2 thẻ tre, một vài chữ sẽ đưa đến án tru di...như Càn long đã giết hại cả nhà thầy dạy học mình., Cổ nhân không có cách nào khác là ký thác những gì muốn nói với đời sau vào những câu chuyện kể bằng lời, đời cha kể chuyện cổ tích cho đời con, đời con thuộc nằm lòng và kể lại cho đời cháu … cứ như thế mà tiếp tục đến ngàn năm sau rồi ra sẽ có ngày vận nước thoát cơn bỉ cực, con cháu sẽ giải mã được các bức điệp văn đánh đi từ quá khứ và tìm lại được quê cha đất tổ và nguồn gốc đích thực của dòng giống mình. Thực may mắn vô cùng ta đã tìm được chiếc chìa khoá để giải mã các tín điệp của tổ tiên đó chính là Dịch Lý. Thí dụ: ngay ở đoạn trên có câu: “lên rừng tìm ngà voi, xuống biển mò ngọc trai…” khi dùng các mã tin của Dịch Lý để giải ta xác định ngay được: Quê cha đất tổ của ta phía tây có rất nhiều voi, phía đông là biển hoàn toàn khớp với ý nghĩa của chữ “nguyên hình” là Tịnh chỉ hướng tây và Long chỉ hướng đông, như thế không thể ở nơi nào khác ngoài miền trung Việt Nam hiện nay.
Sự trùng khớp hoàn toàn này cũng chính là dấu ấn mà tổ tiên người Việt Nam đã đóng lên Kinh Dịch, xác nhận chủ quyền dân tộc trên bản kinh vô giá, độc nhất vô nhị trên thế gian này. Và chỉ có người Đông Nam Á nói chung và người Việt Nam nói riêng khi đã nối thông được với ngọn ngành của dân tộc mình, tiếp thu được linh khí ngàn đồi tổ tiên truyền về mới có thể thấu hiểu Kinh Dịch – tìm được những giá trị vô song tàng chứa trong đó để vận dụng kiến tạo đời sống hạnh phúc cho chính mình và cho anh em, cơn bỉ cực của dân tộc đã kéo dài đến hàng ngàn năm. Phải chăng những ngày tháng này đây là thời khắc linh thiêng, là điểm khởi đầu của thời phục hưng, thời huy hoàng của Đông Nam Á.
2 . Các vua trong truyền thuyết Việt Nam và Trung Hoa cổ
a. Việt Nam
Dựa theo các cổ tích đã dẫn, ta tìm thấy tên các bậc quân vương đời Thái cổ:
1. Viêm Đế họ Thần Nông
2. Vụ Tiên
3. Động Đình Quân
4. Hùng vương
5. Đế Minh
6. Đế Nghi
7. Kinh Dương Vương
8. Lộc Tục
9.Sơn tinh
10. Lạc Long Quân
11. Sùng lãm
12. An Dương Vương – Thục Phán
b. Các vị vua Thái cổ Trung Hoa
*- theo sách Lã thị xuân thu :
Qua loạt bài trước ta đã biết về 4 vị vua Thái Cổ của Trung Hoa:
1. Thái Cao – Mộc Đức – mùa xuân số 8, phương Đông – (màu xanh)
2. Viêm Đế – Hoả Đức – mùa hạ – phương Nam (?) số 7 – (màu đỏ)
3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – số 9 – (màu trắng)
4. Xuyên Húc – Thủy Đức – mùa đông – phương Bắc (?) – số 6 – màu đen
Các số 6 – 7 – 8 – 9 là số chỉ bốn hướng chính của Hà Thư (Đồ); các đức là đức của Ngũ Hành, các thần cũng là thần của Ngũ Hành. Ở phần trích trong Lã Thị Xuân Thu ở trên không thấy nói đến Cửu Thiên, nhưng xem xét thấy rất tương hợp vì tất cả đều là mã tin của Dịch Lý nên có sự nhất quán
Ta thấy sự tương ứng các vị trí:
Thái Cao – Thanh Thiên (xanh)
Viêm Đế – Viêm Thiên (nóng, bức)
Thiếu Hạo – Hạo Thiên (tỏ, rõ)
Xuyên Húc – Huyền Thiên (đen, mờ)
* . Căn cứ vào Cổ Thư Trung Hoa, ta có các vị vua:
1. Bàn Cổ
2. Tam Hoàng: Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng (dị bản: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế)
3. Ngũ Đế: có đến 4 thuyết:
* Thái Hạo – Hoàng đế – Thần Nông – Thiếu Hạo – Chuyên Húc.
* Phục Hy – Thần Nông – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc
* Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Chí (theo Từ Hải)
* Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn (theo Tsui Chi)
… nhiều sách có nhắc đến Đế Ai, Đế Lỗ …. thật là rối rắm.