Văn hóa ngôn ngữ - Trích 2.
- Nguồn : Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) , người Triều Châu, đỗ thành o6/2012
Đăng lại từ : Lãn Miên - http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn
Khi Tần Thủy Hoảng thống Nhất "thiên hạ" thì tiếng Việt-Nhã Ngữ được Triều đình "qui định" để dùng thống nhất hóa về chử viết và tiếng nói... ; nhà Tần ra qui định thống nhất về chữ viết , đơn vị đo lường ...nhưng tồn tại chỉ có 15 năm thì bị người Việt của vùng Sở và vùng Việt Giang Đông liên kết lật đổ ...rồi lập nên Triều Hán .
Sách " Thuyết văn"( 説文 ) của Hứa Thận - 許 慎 biên soạn và viết ra thời Hán : phần đánh vần của thuyết văn phải đọc bằng tiếng Việt ... (nếu như ai đọc sách đó mà đọc theo giọng "Quan Thoại-Bắc kinh-Mandarin" thì sẽ không đánh vần được rất nhiều chữ ) ; Đó là tiếng Việt cổ đại thời Hán và thời Tần và trở về trước nữa ...; Bởi hoàn cảnh và điều kiện kịch sử : Tiếng Việt Cổ là tiếng còn lưu lại được ở Quảng Đông và Việt Nam ngày nay , thời Nam Việt Vương Triệu Đà thì Quảng Đông - Việt Nam ngày nay là chung 1 nước và ngôn ngữ rất là tương đồng giữa các vùng bắc và nam , đông và tây dù có khác giọng Âu , Lạc , Mân ...; Còn tiếng Việt gần biển đông Thái Bình Dương ở phía bắc là Sơn Đông , Tô Châu , Thượng hải sau nầy bị ảnh hưởng mạnh cuả giọng Bắc -kinh nên trở thành 1 nhánh riêng được gọi là NGô-Việt Ngữ ; Phía nam Ngô-Việt ngữ là vùng Phước kiến, Triều Châu lại bị ảnh hưởng cuả gịọng nói Ngô Việt mà trở thành một nhánh riêng gọi là Mân Việt Ngữ ; Laị có riêng 1 nhánh của người Bộc Việt ở Trung Nguyên thời xa xưa qua bao lần loạn lạc vì chiến tranh mà di cư khắp nơi , nhưng vẫn giữ được phần cơ bản ngôn ngữ cuả bộ tộc họ , mà lại trộn lẫn ảnh hưởng các phương ngữ khắp nơi trên đường di cư nên hình thành tiếng Hẹ / khách-Gia -Hakka ngày nay . và Mân Việt Ngữ trên Đảo Hải-Nam thì có qúa nhiều dân cuả bộ tộc Lê /"Cữu-Lê" _Lê -Việt ngày xưa nên hình thành tiếng Hải Nam , và Việt -Nam thì độc lập và tách riêng trở thành tiếng Việt Việt -Nam ; Những Vùng NGô , Sở và phía bắc thì ngày nay đã bị phát âm Bắc-Kinh / Quan thoại /Mandarin ảnh hưởng gần như là toàn diện bởi lịch sử xâm chiếm cuả "hung Nô" và vì đa số triều đình của các triều đại đều đặt tại những vùng đất "Trung Nguyên " nầy trong mấy ngàn năm lịch sữ , nên việc sử dụng quan thoaị trở thành chuyện đương nhiên .
Toàn bộ văn hóa Hạ , Thương , CHu , xuân thu- chiến quốc , Ngô , Việt , Sở ,Văn Lang , Mân , Âu , Lạc Việt , Tần , Hán ...là văn Hóa Việt ; Tại sao goị là văn hóa Việt ? vì quốc hồn , quốc túy đã mang tên Việt ! Việt đã là tên của truyền thống dân tộc cho nên các vương triều mới có tên là Việt chiếm đa số như : Sở ,Tần , HÁN, NGÔ VIỆT , MÂN VIỆT , ĐÔNG VIỆT , DƯƠNG VIỆT , NAM VIỆT , ÂU VIỆT , LẠC VIỆT v v... , Triết học và địa danh cuả sử xưa từ xa xưa đã được định hình và lưu laị cho đến ngày nay ... chữ viết đã lưu lại là Đế Đoan Hạn , Đế Cảo , Đế Nghiêu , Đế Thuấn ...chứ không phải là Thuấn Đế , Nghiêu Đế v v...,và Địa danh là Sơn Đông chứ không phải Đông Sơn , Hà Nam chứ không phải Nam Hà , Thượng Hải chứ không phải Hãi Thượng , Quảng Đông chứ không phải Đông Quảng và đảo Hải Nam chứ không phải Nam hải
V v....
Chỉ đến khi nhà Hán mất , Thời nhà Tấn có nhiều bộ tộc phương bắc tràn xuống chiếm cứ cái nôi văn Hóa Việt vùng Hoàng Hà , Thái Sơn , sông Hoài , sông Lạc , sông Phần v v...thì văn Hóa Việt cổ ở Trung Nguyên mới bị biến đổi và chỉ có phương nam là còn giữ lại được văn hóa Việt gần nguyên vẹn , ...ở phía nam là vùng : sông Trường Giang và Ngủ lĩnh , phương nam ...
Từ thời xa xưa đã có người da trắng di cư xuống nam và lập ra Yến Quốc , đến khi thái tử Yên Đan dùng Kinh Kha mưu Sát Tần Thủy Hoàng là Yến Đã bị Việt Hóa lâu rồi , ngành Khảo Cổ ở bán Đảo Sơn Đông cũng đào được mộ của người da trắng ; Loạn thời Tấn cũng là 1 lần nữa làm xảy ra việc văn Hóa Việt Đồng Hóa thêm 1 số nhiều-rất nhiều- người Turky và và nhiều tộc Hung Nô -Siberi , nhưng , vẫn chính là vì vậy mà văn hóa và ngôn ngữ phía Bắc đã đổi khác thật nhiều với sự lai căng mạnh mẽ bởi tiếng Thổ nhị Kỳ , siberia, Hung nô -Chitan / Khiết Đan v v..do đó mà có tiếng "phổ thông-quan thoại" ngày nay khác xa về văn phạm với Việt ngữ bằng cách Đảo ngược văn phạm Việt , nhưng phát âm thì lại tương đương Việt ...ví dụ : Hoa trở thành Hỏa , "Diệt" trở thành "yué" , "to" lớn trở thành "ta" hay lả chỉ đọc giọng cao hơn là "Tá ,Tó" v v...
Sau khi nhà Tấn mất phân nửa đất phía bắc , thì phía bắc có qúa nhiều chủng tộc và ngôn ngữ khác nhau , ...những chủng tộc cuả người mới xâm chiếm trung nguyên thành lập nhiều quốc gia với tình trạng đa chủng tộc và đa ngôn ngữ , thì bắt buộc phải chọn và bị đồng hóa bỡi tiếng "Phổ thông " , chứ mạnh ai nấy giữ tiếng Turky , mông Cổ , Nga , Tạng v v thì sẽ qúa nhiều khó khăn khi giao tiếp ..., và sau nhiều đời thì đã bị đồng hóa bởi văn hóa Việt , Vì Văn hóa Việt nầy thời đó đã mang danh là nhà "Hán" và "Tiền Hán" , thì khi đã bị đồng hóa rồi thì họ cũng xưng là "Hán"...
Sau nầy , Khi Dân số phát triển và cùng Với Sự phức tạp của giọng Việt ở các miền khác nhau như vùng Thái Sơn , Sông Hoài , Sở , Dạ Lang , Mân , Lạc , Âu , An Huy , Hà nam , Tô Châu , Hàn châu , Phiên Ngung , Giao Châu V v...đã bắt buộc mỗi 1 triều đại các triều đình các đời sau luôn luôn phải dùng và bổ túc cách nói và cách viết chung "phổ thông " ở triều đình , đó là "tiếng Phổ thông" chung cho bá quan văn vỏ mọi miền ...bao gồm luôn những người mới đã bị đồng hóa : cho nên đả định hình và phát triễn thành tiếng "Quan Thoại" , là tiếng nói "mới " của chung cuả những người củ và mới -đã bị đồng hóa ..đễ "phổ thông" , đễ dễ dùng chung cho tất cả các chủng tộc củ và mới của Trung nguyên ...,vì vậy : cho nên đã hoàn chỉnh dần dần và chính thức sinh ra tiếng "quan Thoại"- "phổ thông"; do đó : Cần chú ý điều nầy : những cổ văn từ Hán , Tần ...trở về trước thì không phải là "Quan Thoại" hay "Phổ Thông" mà là Việt Ngữ-Nhã Ngữ ; Dù "quan-thoại " đã được hình thành dần dần , nhưng chỉ Đến đời nhà Tùy và Đường thì tiếng Phổ Thông mới được đầy mạnh và phát triễn mạnh thêm 1 lần nữa , bởi vì Tùy và Đường đều là gốc Hung Nô ở Siberia , tuy vậy , thời đó tiếng Phổ thông chưa đủ để thay thế nổi cho Việt Ngữ , nên Đường thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ ... thì mới đúng theo vần đả gieo trong Đường Thi ( Chú ý : Thơ văn từ Tống < Đường trở về trước là Việt , phải đọc theo giọng Việt , nhưng cũng có 1 số ít dùng theo tiếng "Phổ thông-Quan Thoại " do những người "mới" đã viết ra ...mà truy nguyên ra sẽ thấy Họ là họ nhà làm quan cha truyền con nối nên đã chỉ rành và chỉ biết "quan thoại " hoặc họ chính là dòng người Hung-Nô , Siberi ...ví dụ như điễn hình là nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch gốc Hung Nô-Siberia ) .
Sau nhà Đường là nhà Tống ..., Tống -Từ và Đường Thi điều phải đọc theo giọng Việt ...Bởi vì tiếng việt "xưa" tiếp tục vẫn còn mạnh ; Nhưng rồi Nhà Tống bị mất bởi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ ...làm thay đổi lớn , Tiếng Bắc-kinh / phổ thông lại lớn và mạnh thêm ...
Văn chương xa xưa từ trước là nhà Hán , Tần v v...thì văn phạm Việt rõ ràng :Ví dụ ... , Người Mân Việt là người Triều châu từ xưa đến nay vẩn dùng từ "CÔI -BÓ 雞 母" ( Gà mẹ ) cho đến ngày nay , -"Côi" là "kê" của tiếng Việt cổ đại mà bên đạo Phật ở Việt Nam ngày nay vẫn còn nhiều người biết ..., ''côi 雞 '' là Kê/Gà , ''Bó 母 '' là ''Po'', là "a-phò" , là "bà" , "bà mẹ" , "mẹ", -"Côi bó" là "gà mẹ" ; Đối chiếu "Côi bó" hay "gà mẹ" với văn chương tiền Tần-Hán thì thấy rõ văn phạm và phát âm bị gọi là "cổ Hán ngữ" đúng là như vậy và chính là Việt ngữ , và xa xưa thì sách thời tiền Hán đúng là dùng là : 雞 母 .
-Côi Bó雞 母= Gà mẹ ; chữ Gà là "kê"雞 viết trước : Văn Phạm tiếng "Việt" .
-ngày nay tiếng Bắc kinh dùng là "Mẫu -kê 母雞 " với chử Gà là "Kê"雞 viết sau : văn phạmBắc kinh/ Phổ-Thông hiện giờ .
=> rõ ràng thời Tần , Hán và trở về trước thì ngôn ngữ toàn là Việt.
-xưa : tra cổ thư thấy viết là "bộ hành 步行 " : nghiã là Bước Đi ( chữ Hành 行 là "Đi"... phải viết phía sau ) ,chứ không phải "hành lộ 行路 " như hiện giờ ( Chử Hành 行 là "Đi"... viết phía trước ) .
- Xưa viết là "Mắt" 目 chứ không viết là "nhãn tinh"-眼睛 như bây giờ v v..
=>quá nhiều bằng chứng và quá rõ ràng là trước đây là Hán , Tần , xuân thu-chiến quốc , Chu , Thương , Hạ , Ngũ Đế , Tam Hoàng v v...xa xưa là văn hóa và ngôn ngữ là Việt .
Đến khi Mông Cổ thôn tính Trung nguyên và lập ra nhà Nguyên qúa lâu , thì tiếng Phổ Thông chiếm thượng phong , nhà Minh lật đổ nhà Nguyên , cố khôi phục lại ngôn ngữ , nhưng khi dời thủ đô từ phía nam lên vùng Bắc -Kinh thì quan và triều đình lại phải dùng "quan -Thoại"... , nhưng ...và rồi lại đến 1 nhánh Hung Nô khác là tộc Nữ Chân của vùng Mản Châu lập nên nhà Thanh , tiếng Phổ Thông -Bắc kinh tiếp tục "lên ngôi" và đồng hóa người tộc Mãn/ Kim , Triều đình Mãn Thanh bắt buộc thi cử tuyển "Trạng nguyên" , "tiến-Sĩ" V V...là phải thi tuyển bằng tiếng Phổ-Thông / Quan Thoại .... , vùng Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng -Tây chống đối , vẫn chỉ thi bằng tiếng Việt , Vùng Mân Việt là Phước -Kiến , Triều Châu thì dung hòa thi bằng song ngữ Quan-Thoại và Mân Việt Ngữ ....; Nếu gộp chung lại là "Thương" Bị ảnh hưỡng bỡi Bạch Địch Siberia , "Chu" , "yến" , Ngụy" , "kim" , "liêu" ,"Tây Hạ" v v...thêm vào nhà "Nguyên" và "Mãn Thanh" tính chung cộng lại hàng ngàn năm bắc thuộc "Hung Nô" làm cho vùng Hoàng Hà và bán đảo Sơn Đông -Trung Nguyên đã bị ...trở thành "Văn hóa Việt đồng hóa ngoại tộc " : Trở thành văn hóa "phổ thông" mà thành phần mới nầy lại rất là mạnh và xưng...là dòng dỏi của "Hạ" ," Hán " , xưng ...là " Hoa Hạ " tộc ! ...xưng là " Hán " tộc với tiếng nói là tiếng Phổ Thông - Quan Thoại ! Và sau nầy còn có tên là tiếng "Bắc Kinh " hay là "Madarin "- (Mandarin là Do phiên âm từ chữ Mãn Đại cuả Triều Mãn -Thanh bởi người Tây Phương " ....; Họ đọc chử Hạ夏 là "Xia" ...TRONG KHI SỬ SÁCH CỦA "HẠ 夏" LÀ VIỆT TỘC VỚI VĂN PHẠM Và NGÔN NGỮ RỎ RÀNG ...đọc là " Hạ " .
Sau khi nhà Thanh bị Mất bởi Tôn Dật Tiên làm cách mạng ..., nước "Trung-Hoa" mới được thành lập , Việt ngữ phương nam đã được cân nhắc làm tiếng Phổ thông để dùng thống nhất , nhưng vì trong hàng ngũ tướng lãnh có qúa nhiều người phương bắc sử dụng tiếng Phổ Thông , nên vì đại cuộc mà một lần nữa tiếng Phổ thông-Quan Thoại -Mandarin lại được chọn làm tiếng "Phổ-Thông".
_Và điều đó tiếp tục ảnh hươn̉g trở thành hiện trạng ngày nay...
Khi HỨA THẬN Biên soạn "TỰ ĐIỂN" THUYẾT VĂN Thời HÁN Thì chữ ''HẠ'' Vẫn là được ghi phiên âm là : 胡 雅 切= Hồ Nhả Thiết " , hồ nhã thiết...,nghiã là ...Hồ a ha . Hạ 夏 ", đó là tiếg Việt : Khác xa với "phổ thông là "Xia 夏 ". Chú Ý : Xin đón xem bài bài khào cứu " Thuyết Văn " ...
Theo Tôi thấy :
=>Chỉ khi nào có việc sách THUYẾT VĂN ...để giải tự của Hứa Thận thời nhà Hán mà lại đánh vần chữ "HẠ" là " x-i -a -xie =xié ",và toàn bộ những chữ khác trong thuyết văn phải đọc theo giọng "Phổ thông-Bắc kinh" thì người ta mới tin được là có 1 nền văn Hóa gọi là "Hoa-Hạ" hay "Hán" có trước văn hóa Việt .
=>Chỉ khi nào có việc triều Hán không nói tiếng Việt mà lại có riêng 1 thứ tiếng "Hán !" thì người ta mới nên nghĩ tới những lập luận : Hán ngữ , Hán tộc , Hán hóa những dân tộc khác , v v....; Nhưng chỉ riêng 1 quyển "tự điển"/ "Thuyết Văn" của triều đại mang tên Hán 漢 do Hứa Thận biên soạn cũng đủ chứng minh tất cả Hán là Việt : 越 / 粵 ...bởi phát âm của từ điển , của ngôn ngữ là Việt 越 ; Vậy thật ra là Việt Hóa 越 化...các tộc khác .
.=> -Và đặc biệt là nên phải nhấn mạnh và lập lại điều nầy : tất cả NHỮNG CHỮ KHÁC trong TOÀN BỘ SÁCH "THUYẾT VĂN" của Hứa Thận thời nhà Hán PHẢI ĐỌC THEO TIẾNG VIỆT ̣( đã biến thành mấy phương ngôn Việt ngày nay ).../ Nếu như đọc theo tiếng "Mandarin-quan thoại" thì : thứ nhất là đánh vần sẽ sai , thứ hai là đọc được 1 it́ chữ trùng hợp thôi , và thứ ba là có chữ sẽ không đánh vần phiên âm được : Điều nầy có thể kiểm chứng dễ dàng bằng cách mở sách "thuyết Văn" của Thời Hán ra mà Đọc thử ...
=>Và ĐƯỜNG THI Với TỐNG TỪ PHẢI ĐỌC THEO CÁC PHƯƠNG NGÔN VIỆT ...mới đúng vần , mới hay...
-...=>Và KHỔNG TỬ DẠY HỌC BẰNG NHÃ NGỮ tiếng VIỆT( 雅語) , NHÀ CHU VÀ NHỮNG NƯỚC THỜI XUÂN THU -CHIẾN QUỐC PHẢI DÙNG NHÃ NGỮ VIỆT ĐỂ LÀM TIẾNG "PHỔ THÔNG'' KHI GIAO THIỆP...LIÊN LẠC , tất cả những điều nầy được ghi trong nhiều cổ thư , bằng chứng vẫn còn đó và qúa nhiều bằng chứng ...
Tất cả sách diển giải sử của từng thời đại đều khó thoát khỏi "tư tưởng sử" của THẾ LỰC Chính Trị của mỗi 1 thời đại ! Nhưng hãy dùng khoa học nghiên cứu về NGÔN NGỮ , PHONG TỤC , khảo cổ , di truyền , tôn gíao ,thiên văn , địa lý , toán học v v... để lý giải bằng tinh thần Chân , Thiện , Mỷ thì lịch sử sẻ ̣được sáng tỏ ...; Chúng ta không có máy thu âm thời cổ sử để lưu lại tiếng Việt thời xưa : Nhưng đã có VIỆT TUYỆT THƯ , và có thể tham khảo Chiến Quốc Sách , Ngô Việt -Xuân Thu , Tứ Thư -Ngủ Kinh , Thuỷ kinh chú ,Tiền Hán Ký , Hán Thư , Sử Ký , Tống Sử , Minh Sử , Thanh Sử -Tứ Khố Toàn Thư , Quảng Châu Ký v v...và bên cạnh sách sử của nước Việt-Nam ; Về văn hóa dân gian còn có những bài Đường Thi , Tống Từ , còn Việt Kịch của Giang-Tô , Chiết Giang , những văn hóa , và phong tục dân gian ...và đặc biệt là có sách "Thuyết Văn " với ghi chú cách đánh vần Việt rõ ràng ở thời nhà Hán của Hứa Thận , cộng thêm có nhiều ngôn ngữ Bách Việt còn tồn tại cho đến ngày nay như Bộc Việt ,Ngô Việt , Mân Việt , Lê Việt ̣( tiếng của người dân sống trên đảo Hải Nam ) ,Lạc Việt , Việt v v..., Tất cả chi tiết trên đã là bằng chứng sống động cho thấy Văn Hóa người Việt đã trải rộng và đồng hóa biết bao dân tộc khác ở Trung Quốc từ ngàn xưa cho đến hiện thời...; Những sự ngộ nhận và diễn giải sai lầm ý nghiã chung quanh chữ Hoa và Việt bởi các thế lực chính trị để tranh dành vai trò "chính Thống" và "quyền lực" đã làm gây ra phân ly và chiến tranh và đau khổ cho biết bao muôn dân của đại gia đình Bách Việt.
Có 1 thuyết cho rằng nước Việt cuả vua Câu Tiễn không phải là con cháu của vua Vũ nhà Hạ như Việt Tuyệt thư đã ghi chép , vì vua Việt mang họ Mi , sau đổi họ Lạc , trong khi nhà Hạ mang họ 姒-Tự, lập luận nầy rất quan trọng và cần chú ý , Xưa hay đỗi họ do được phong Quan và Đất v v..Các đời tổ tiên trước cuả Vua Vũ cũng thay đổi Họ nhiều lần , Thuyết trên không đủ bằng chứng thuyết phục để bãi bỏ những gì đã được ghi chép trong Việt Tuyệt thư , bỡi vì Việt thư ghi chép qúa rõ ràng ; muốn phủ nhận Việt thư không phải là dễ .
Có thuyết cho rằng người Việt là Thổ dân lâu đời ở 1 vùng rộng lớn , lập ra nhiều nước Việt nhỏ và trong đó có nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn , thuyết nầy được các nhà nghiên cứu sử "tin Cậy" hơn , bởi vì khảo cứu theo thực tế lịch sử thì nhóm Việt cư trú trên địa bàn qúa rộng .
Tại sao người ta không nhập 2 thuyết làm 1 ? Và Còn chuyện đổi họ vẫn đầy dẫy trong lịch sữ xa xưa cũng như sau nầy , họ Mi , họ Lạc cũng đổi làm họ ÂU và Âu_Dương ở vùng Âu giang của Âu Việt , Họ Mi cũng đổi thành Họ Sở ..., Họ LẠC khi chạy loạn cũng đổi thành họ LA , Họ LAI để giữ an toàn ... ; Và từ cổ xưa cũng thế thôi , ở đâu thì gọi theo tên đó lâu ngày thành họ mới , đất Trịnh , đất Triệu , đất Ngụy v v...đều tạo ra họ mới ; xưa có họ Cơ là vì sống ở sông Cơ , lâu ngày thì được gọi là Cơ , Họ Khương là vì ở sông Khương V v....; nên nghĩ đến là nhóm Việt trải rộng trên 1 địa bàn bao la bởi vì giỏi dùng ghe thuyền , cho nên theo bờ biển và theo dòng sông di chuyển , di cư rất dễ dàng ? Dù không phải là du mục , nhưng còn phương pháp du canh đốt rừng làm rẫy , đễ tỉa lúa khô , trồng kê , bắp , đậu , khoai trên cạn ...cũng đòi hỏi phải di chuyển hoài để đốt rẫy mới là có thu hoạch tốt hơn cho mùa trồng tỉa kế tiếp , như hiện nay chúng ta vẫn hiểu và thấy rõ qua lối du canh , du cư , ... Câu "khoai đất lạ , mạ đất nhà " cũng là 1 lý do để phải "di cư " ..., hiện nay thì việc trồng lúa và nuôi heo đã được xác định là của Việt tộc biết làm sớm nhất... , gia đình , dòng họ , gia phả , xã hội , đời sống và thực phẩm phong phú , ở đâu có người Việt là ở đó có trái bầu và rau qủa v v..., văn minh nông nghiệp cũng tạo ra âm lịch và quan sát thời tiết , bầu trời , thiên văn-địa lý , sau nầy còn có đoàn quân Hổ và Voi ra trận xông pha chiến trường của Mạnh Hoạch và của Hai bà Trưng , đời sống thực tế cuả người Việt mới thật là lạ và hay cho những sáng kiến và ứng dụng , thuyết nhất nguyên Thái cực sinh lưỡng nghi của vùng đất Sở thật là cao thâm khó lường , vẽ bùa và thần chú của vùng Mao-Sơn (Cối-kê) , yêu tinh hay thần thánh nhập xác người dùng cây nhọn xuyên gò má , xuyên lưỡi , cắt lưỡi lấy máu làm bùa vùng Phước kiến- Triều châu thật lạ lùng đặc biệt , gọi hồn , xem phong thủy địa lý , tử vi , bói toán thuật số , thư-trấn-yếm bùa đối với người và công tr̀inh xây dựng thật là huyền bí , nghiên cứu võ công , thế trận-binh thư , nhạc cụ , thi ca , tiên tri , khoa học v v..., chế tạo thuốc pháo , giấy , xe , ghe , nhà sàn , thành quách -cung đình , đền thờ- lăng tẵm , vũ khí , mỹ phẩm , y dược v v...; những người khảo cứu lịch sử Bách- Việt còn hay nhắc lại những phát hiện người Việt giỏi dùng ghe , thuyền di chuyển trên sông biển và trồng lúa , cắt tóc ngắn để dễ làm việc đồng áng ở ruộng lúa nước ... ? có tục xâm mình , vẽ mặt , đội lông chim (điều nầy cũng thấy rõ ở thổ dân Châu ÚC và Châu Mỹ La-tinh), quan niệm sống là "THiên" và "NHân" hợp nhất , khi làm lễ cúng tế thì ca hát và nhảy múa , những từ ngữ "chìa khoá" cuả tiếng Việt có liên hệ với nhóm ngữ hệ nam đảo Thái Bình Dương v v...; người ta ước tính rằng ngày xưa 1 chiếc thuyền buồm (không có́ máy móc cơ khí như hiện nay ) nếu xuất phát từ vùng Cối -kê / Hàng Châu thì chỉ trong vòng 1 tuần lễ là đến nước Nhật hiện giờ...
Tiếng Việt thời tiền sử là đa âm , rồi biến dần thành đơn âm , tôi không dám lạm bàn nhiều hơn , không dám đụng đến "chuyên khoa" ngôn ngữ học với mớ kiến thức Lơ-tơ-mơ cuả mình ," lang -thang " và "lênh- đênh" trên 1 biển tài liệu cổ sử Bách Việt , khảo cứu và đối chiếu với thực tế là sở thích cuả tôi để tìm cội nguồn tổ tiên , chuyện nầy rất là bình thường đối với tôi và với biết bao người khác , bài khảo cứu của tôi sẽ chẳng mang lại lợi lộc vất chất gì ! sẽ chẳng có danh hay lợi gì để bóp méo sự thật , chỉ là những lời tâm tình và chia sẻ công khai để mong những người có tâm huyết nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng mà phê phán cho tôi biết là tôi hiểu đúng hay là Sai ...???
Khi qúi vị đọc bài viết nầy : xin phép cho tôi nhắc lại Ca dao Việt ...để thấy người Việt Ngày xưa với tiếng Việt đã từng sống ở đâu ...
_Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
...Bống bồng bông , bống bồng bông
Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên
...Và
_Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
( Động Đình Hồ là hồ nước lớn chính giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ; Thái Sơn là ngọn núi hùng vĩ ở bán đảo Sơn Đông ).
Và...
Nước đóng băng khi thời tiết băng giá , khi băng tan rồi thì băng lại là nước ..., với thành tựu khoa học và văn hóa khiêm tốn của nhân loaị ngày nay cũng đã bắt đầu vén được bức màn bí mật của DNA và của lịch sử ; trong tương lai thì lịch sử Việt hóa , và lịch sử Việt tiến hóa như thế nào từ xưa cho đến nay ...cùng với những trang sử bị cải biên hay bị ngộ nhận chắc chắn sẽ được làm sáng tỏ rõ ràng. _Một ngày nào đó ...tất cả tiếng Việt : gồm Hoa ngữ- Phổ Thông -Bắc Kinh của phương bắc ,Bộc Việt-Hakka ,Ngô Việt-Tô Châu , Thượng Hải , Dương Việt-Vùng Kinh Sở và Dương Châu , Giang Tây , Mân Việt-Phước kiến , Triều Châu , Lôi Châu , Lê Việt-Hải Nam , Việt-Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam ,_một ngày nào đó _Vì lý do "Toàn cầu hóa" , hay vì khoa học vi tính và "bàn phím đánh máy hóa" mà tất cả các tiếng Việt nêu trên được đánh vần chung 1 phương cách và bằng cùng 1 loại mẩu tự La-tinh A B C ...thì tât́ cả Việt ngữ nêu trên sẽ lại quay về 1 gốc Việt thống nhất ;Và đó cũng là cách học và hiểu các Việt Ngữ khác biệt nhau hiện nay của tôi là cứ việc phiên âm tất cả trở thành tiếng Việt A B C... thì sẽ thấy được sự tương đồng hay tương đương với tiếng Việt gốc của cá nhân gia đình mình đang dùng- thì sẽ dễ học và dễ hiếu lắm !
Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) .
Ghi chú của trang chủ Blog-web này .
-Sách Thuyết văn giải tự được Hứa Thận viết ở thời Đông Hán .( Đông hán ≠Tây hán ).
-Một số thông tin Lịch sử – địa danh và chủng tộc trong bài là kiến giải riêng của tác giả Nhạn nam Phi xin đăng nguyên văn để bạn đọc tham khảo.
- Nguồn : Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) , người Triều Châu, đỗ thành o6/2012
Đăng lại từ : Lãn Miên - http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn
Khi Tần Thủy Hoảng thống Nhất "thiên hạ" thì tiếng Việt-Nhã Ngữ được Triều đình "qui định" để dùng thống nhất hóa về chử viết và tiếng nói... ; nhà Tần ra qui định thống nhất về chữ viết , đơn vị đo lường ...nhưng tồn tại chỉ có 15 năm thì bị người Việt của vùng Sở và vùng Việt Giang Đông liên kết lật đổ ...rồi lập nên Triều Hán .
Sách " Thuyết văn"( 説文 ) của Hứa Thận - 許 慎 biên soạn và viết ra thời Hán : phần đánh vần của thuyết văn phải đọc bằng tiếng Việt ... (nếu như ai đọc sách đó mà đọc theo giọng "Quan Thoại-Bắc kinh-Mandarin" thì sẽ không đánh vần được rất nhiều chữ ) ; Đó là tiếng Việt cổ đại thời Hán và thời Tần và trở về trước nữa ...; Bởi hoàn cảnh và điều kiện kịch sử : Tiếng Việt Cổ là tiếng còn lưu lại được ở Quảng Đông và Việt Nam ngày nay , thời Nam Việt Vương Triệu Đà thì Quảng Đông - Việt Nam ngày nay là chung 1 nước và ngôn ngữ rất là tương đồng giữa các vùng bắc và nam , đông và tây dù có khác giọng Âu , Lạc , Mân ...; Còn tiếng Việt gần biển đông Thái Bình Dương ở phía bắc là Sơn Đông , Tô Châu , Thượng hải sau nầy bị ảnh hưởng mạnh cuả giọng Bắc -kinh nên trở thành 1 nhánh riêng được gọi là NGô-Việt Ngữ ; Phía nam Ngô-Việt ngữ là vùng Phước kiến, Triều Châu lại bị ảnh hưởng cuả gịọng nói Ngô Việt mà trở thành một nhánh riêng gọi là Mân Việt Ngữ ; Laị có riêng 1 nhánh của người Bộc Việt ở Trung Nguyên thời xa xưa qua bao lần loạn lạc vì chiến tranh mà di cư khắp nơi , nhưng vẫn giữ được phần cơ bản ngôn ngữ cuả bộ tộc họ , mà lại trộn lẫn ảnh hưởng các phương ngữ khắp nơi trên đường di cư nên hình thành tiếng Hẹ / khách-Gia -Hakka ngày nay . và Mân Việt Ngữ trên Đảo Hải-Nam thì có qúa nhiều dân cuả bộ tộc Lê /"Cữu-Lê" _Lê -Việt ngày xưa nên hình thành tiếng Hải Nam , và Việt -Nam thì độc lập và tách riêng trở thành tiếng Việt Việt -Nam ; Những Vùng NGô , Sở và phía bắc thì ngày nay đã bị phát âm Bắc-Kinh / Quan thoại /Mandarin ảnh hưởng gần như là toàn diện bởi lịch sử xâm chiếm cuả "hung Nô" và vì đa số triều đình của các triều đại đều đặt tại những vùng đất "Trung Nguyên " nầy trong mấy ngàn năm lịch sữ , nên việc sử dụng quan thoaị trở thành chuyện đương nhiên .
Toàn bộ văn hóa Hạ , Thương , CHu , xuân thu- chiến quốc , Ngô , Việt , Sở ,Văn Lang , Mân , Âu , Lạc Việt , Tần , Hán ...là văn Hóa Việt ; Tại sao goị là văn hóa Việt ? vì quốc hồn , quốc túy đã mang tên Việt ! Việt đã là tên của truyền thống dân tộc cho nên các vương triều mới có tên là Việt chiếm đa số như : Sở ,Tần , HÁN, NGÔ VIỆT , MÂN VIỆT , ĐÔNG VIỆT , DƯƠNG VIỆT , NAM VIỆT , ÂU VIỆT , LẠC VIỆT v v... , Triết học và địa danh cuả sử xưa từ xa xưa đã được định hình và lưu laị cho đến ngày nay ... chữ viết đã lưu lại là Đế Đoan Hạn , Đế Cảo , Đế Nghiêu , Đế Thuấn ...chứ không phải là Thuấn Đế , Nghiêu Đế v v...,và Địa danh là Sơn Đông chứ không phải Đông Sơn , Hà Nam chứ không phải Nam Hà , Thượng Hải chứ không phải Hãi Thượng , Quảng Đông chứ không phải Đông Quảng và đảo Hải Nam chứ không phải Nam hải
V v....
Chỉ đến khi nhà Hán mất , Thời nhà Tấn có nhiều bộ tộc phương bắc tràn xuống chiếm cứ cái nôi văn Hóa Việt vùng Hoàng Hà , Thái Sơn , sông Hoài , sông Lạc , sông Phần v v...thì văn Hóa Việt cổ ở Trung Nguyên mới bị biến đổi và chỉ có phương nam là còn giữ lại được văn hóa Việt gần nguyên vẹn , ...ở phía nam là vùng : sông Trường Giang và Ngủ lĩnh , phương nam ...
Từ thời xa xưa đã có người da trắng di cư xuống nam và lập ra Yến Quốc , đến khi thái tử Yên Đan dùng Kinh Kha mưu Sát Tần Thủy Hoàng là Yến Đã bị Việt Hóa lâu rồi , ngành Khảo Cổ ở bán Đảo Sơn Đông cũng đào được mộ của người da trắng ; Loạn thời Tấn cũng là 1 lần nữa làm xảy ra việc văn Hóa Việt Đồng Hóa thêm 1 số nhiều-rất nhiều- người Turky và và nhiều tộc Hung Nô -Siberi , nhưng , vẫn chính là vì vậy mà văn hóa và ngôn ngữ phía Bắc đã đổi khác thật nhiều với sự lai căng mạnh mẽ bởi tiếng Thổ nhị Kỳ , siberia, Hung nô -Chitan / Khiết Đan v v..do đó mà có tiếng "phổ thông-quan thoại" ngày nay khác xa về văn phạm với Việt ngữ bằng cách Đảo ngược văn phạm Việt , nhưng phát âm thì lại tương đương Việt ...ví dụ : Hoa trở thành Hỏa , "Diệt" trở thành "yué" , "to" lớn trở thành "ta" hay lả chỉ đọc giọng cao hơn là "Tá ,Tó" v v...
Sau khi nhà Tấn mất phân nửa đất phía bắc , thì phía bắc có qúa nhiều chủng tộc và ngôn ngữ khác nhau , ...những chủng tộc cuả người mới xâm chiếm trung nguyên thành lập nhiều quốc gia với tình trạng đa chủng tộc và đa ngôn ngữ , thì bắt buộc phải chọn và bị đồng hóa bỡi tiếng "Phổ thông " , chứ mạnh ai nấy giữ tiếng Turky , mông Cổ , Nga , Tạng v v thì sẽ qúa nhiều khó khăn khi giao tiếp ..., và sau nhiều đời thì đã bị đồng hóa bởi văn hóa Việt , Vì Văn hóa Việt nầy thời đó đã mang danh là nhà "Hán" và "Tiền Hán" , thì khi đã bị đồng hóa rồi thì họ cũng xưng là "Hán"...
Sau nầy , Khi Dân số phát triển và cùng Với Sự phức tạp của giọng Việt ở các miền khác nhau như vùng Thái Sơn , Sông Hoài , Sở , Dạ Lang , Mân , Lạc , Âu , An Huy , Hà nam , Tô Châu , Hàn châu , Phiên Ngung , Giao Châu V v...đã bắt buộc mỗi 1 triều đại các triều đình các đời sau luôn luôn phải dùng và bổ túc cách nói và cách viết chung "phổ thông " ở triều đình , đó là "tiếng Phổ thông" chung cho bá quan văn vỏ mọi miền ...bao gồm luôn những người mới đã bị đồng hóa : cho nên đả định hình và phát triễn thành tiếng "Quan Thoại" , là tiếng nói "mới " của chung cuả những người củ và mới -đã bị đồng hóa ..đễ "phổ thông" , đễ dễ dùng chung cho tất cả các chủng tộc củ và mới của Trung nguyên ...,vì vậy : cho nên đã hoàn chỉnh dần dần và chính thức sinh ra tiếng "quan Thoại"- "phổ thông"; do đó : Cần chú ý điều nầy : những cổ văn từ Hán , Tần ...trở về trước thì không phải là "Quan Thoại" hay "Phổ Thông" mà là Việt Ngữ-Nhã Ngữ ; Dù "quan-thoại " đã được hình thành dần dần , nhưng chỉ Đến đời nhà Tùy và Đường thì tiếng Phổ Thông mới được đầy mạnh và phát triễn mạnh thêm 1 lần nữa , bởi vì Tùy và Đường đều là gốc Hung Nô ở Siberia , tuy vậy , thời đó tiếng Phổ thông chưa đủ để thay thế nổi cho Việt Ngữ , nên Đường thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ ... thì mới đúng theo vần đả gieo trong Đường Thi ( Chú ý : Thơ văn từ Tống < Đường trở về trước là Việt , phải đọc theo giọng Việt , nhưng cũng có 1 số ít dùng theo tiếng "Phổ thông-Quan Thoại " do những người "mới" đã viết ra ...mà truy nguyên ra sẽ thấy Họ là họ nhà làm quan cha truyền con nối nên đã chỉ rành và chỉ biết "quan thoại " hoặc họ chính là dòng người Hung-Nô , Siberi ...ví dụ như điễn hình là nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch gốc Hung Nô-Siberia ) .
Sau nhà Đường là nhà Tống ..., Tống -Từ và Đường Thi điều phải đọc theo giọng Việt ...Bởi vì tiếng việt "xưa" tiếp tục vẫn còn mạnh ; Nhưng rồi Nhà Tống bị mất bởi nhà Nguyên của tộc Mông Cổ ...làm thay đổi lớn , Tiếng Bắc-kinh / phổ thông lại lớn và mạnh thêm ...
Văn chương xa xưa từ trước là nhà Hán , Tần v v...thì văn phạm Việt rõ ràng :Ví dụ ... , Người Mân Việt là người Triều châu từ xưa đến nay vẩn dùng từ "CÔI -BÓ 雞 母" ( Gà mẹ ) cho đến ngày nay , -"Côi" là "kê" của tiếng Việt cổ đại mà bên đạo Phật ở Việt Nam ngày nay vẫn còn nhiều người biết ..., ''côi 雞 '' là Kê/Gà , ''Bó 母 '' là ''Po'', là "a-phò" , là "bà" , "bà mẹ" , "mẹ", -"Côi bó" là "gà mẹ" ; Đối chiếu "Côi bó" hay "gà mẹ" với văn chương tiền Tần-Hán thì thấy rõ văn phạm và phát âm bị gọi là "cổ Hán ngữ" đúng là như vậy và chính là Việt ngữ , và xa xưa thì sách thời tiền Hán đúng là dùng là : 雞 母 .
-Côi Bó雞 母= Gà mẹ ; chữ Gà là "kê"雞 viết trước : Văn Phạm tiếng "Việt" .
-ngày nay tiếng Bắc kinh dùng là "Mẫu -kê 母雞 " với chử Gà là "Kê"雞 viết sau : văn phạmBắc kinh/ Phổ-Thông hiện giờ .
=> rõ ràng thời Tần , Hán và trở về trước thì ngôn ngữ toàn là Việt.
-xưa : tra cổ thư thấy viết là "bộ hành 步行 " : nghiã là Bước Đi ( chữ Hành 行 là "Đi"... phải viết phía sau ) ,chứ không phải "hành lộ 行路 " như hiện giờ ( Chử Hành 行 là "Đi"... viết phía trước ) .
- Xưa viết là "Mắt" 目 chứ không viết là "nhãn tinh"-眼睛 như bây giờ v v..
=>quá nhiều bằng chứng và quá rõ ràng là trước đây là Hán , Tần , xuân thu-chiến quốc , Chu , Thương , Hạ , Ngũ Đế , Tam Hoàng v v...xa xưa là văn hóa và ngôn ngữ là Việt .
Đến khi Mông Cổ thôn tính Trung nguyên và lập ra nhà Nguyên qúa lâu , thì tiếng Phổ Thông chiếm thượng phong , nhà Minh lật đổ nhà Nguyên , cố khôi phục lại ngôn ngữ , nhưng khi dời thủ đô từ phía nam lên vùng Bắc -Kinh thì quan và triều đình lại phải dùng "quan -Thoại"... , nhưng ...và rồi lại đến 1 nhánh Hung Nô khác là tộc Nữ Chân của vùng Mản Châu lập nên nhà Thanh , tiếng Phổ Thông -Bắc kinh tiếp tục "lên ngôi" và đồng hóa người tộc Mãn/ Kim , Triều đình Mãn Thanh bắt buộc thi cử tuyển "Trạng nguyên" , "tiến-Sĩ" V V...là phải thi tuyển bằng tiếng Phổ-Thông / Quan Thoại .... , vùng Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng -Tây chống đối , vẫn chỉ thi bằng tiếng Việt , Vùng Mân Việt là Phước -Kiến , Triều Châu thì dung hòa thi bằng song ngữ Quan-Thoại và Mân Việt Ngữ ....; Nếu gộp chung lại là "Thương" Bị ảnh hưỡng bỡi Bạch Địch Siberia , "Chu" , "yến" , Ngụy" , "kim" , "liêu" ,"Tây Hạ" v v...thêm vào nhà "Nguyên" và "Mãn Thanh" tính chung cộng lại hàng ngàn năm bắc thuộc "Hung Nô" làm cho vùng Hoàng Hà và bán đảo Sơn Đông -Trung Nguyên đã bị ...trở thành "Văn hóa Việt đồng hóa ngoại tộc " : Trở thành văn hóa "phổ thông" mà thành phần mới nầy lại rất là mạnh và xưng...là dòng dỏi của "Hạ" ," Hán " , xưng ...là " Hoa Hạ " tộc ! ...xưng là " Hán " tộc với tiếng nói là tiếng Phổ Thông - Quan Thoại ! Và sau nầy còn có tên là tiếng "Bắc Kinh " hay là "Madarin "- (Mandarin là Do phiên âm từ chữ Mãn Đại cuả Triều Mãn -Thanh bởi người Tây Phương " ....; Họ đọc chử Hạ夏 là "Xia" ...TRONG KHI SỬ SÁCH CỦA "HẠ 夏" LÀ VIỆT TỘC VỚI VĂN PHẠM Và NGÔN NGỮ RỎ RÀNG ...đọc là " Hạ " .
Sau khi nhà Thanh bị Mất bởi Tôn Dật Tiên làm cách mạng ..., nước "Trung-Hoa" mới được thành lập , Việt ngữ phương nam đã được cân nhắc làm tiếng Phổ thông để dùng thống nhất , nhưng vì trong hàng ngũ tướng lãnh có qúa nhiều người phương bắc sử dụng tiếng Phổ Thông , nên vì đại cuộc mà một lần nữa tiếng Phổ thông-Quan Thoại -Mandarin lại được chọn làm tiếng "Phổ-Thông".
_Và điều đó tiếp tục ảnh hươn̉g trở thành hiện trạng ngày nay...
Khi HỨA THẬN Biên soạn "TỰ ĐIỂN" THUYẾT VĂN Thời HÁN Thì chữ ''HẠ'' Vẫn là được ghi phiên âm là : 胡 雅 切= Hồ Nhả Thiết " , hồ nhã thiết...,nghiã là ...Hồ a ha . Hạ 夏 ", đó là tiếg Việt : Khác xa với "phổ thông là "Xia 夏 ". Chú Ý : Xin đón xem bài bài khào cứu " Thuyết Văn " ...
Theo Tôi thấy :
=>Chỉ khi nào có việc sách THUYẾT VĂN ...để giải tự của Hứa Thận thời nhà Hán mà lại đánh vần chữ "HẠ" là " x-i -a -xie =xié ",và toàn bộ những chữ khác trong thuyết văn phải đọc theo giọng "Phổ thông-Bắc kinh" thì người ta mới tin được là có 1 nền văn Hóa gọi là "Hoa-Hạ" hay "Hán" có trước văn hóa Việt .
=>Chỉ khi nào có việc triều Hán không nói tiếng Việt mà lại có riêng 1 thứ tiếng "Hán !" thì người ta mới nên nghĩ tới những lập luận : Hán ngữ , Hán tộc , Hán hóa những dân tộc khác , v v....; Nhưng chỉ riêng 1 quyển "tự điển"/ "Thuyết Văn" của triều đại mang tên Hán 漢 do Hứa Thận biên soạn cũng đủ chứng minh tất cả Hán là Việt : 越 / 粵 ...bởi phát âm của từ điển , của ngôn ngữ là Việt 越 ; Vậy thật ra là Việt Hóa 越 化...các tộc khác .
.=> -Và đặc biệt là nên phải nhấn mạnh và lập lại điều nầy : tất cả NHỮNG CHỮ KHÁC trong TOÀN BỘ SÁCH "THUYẾT VĂN" của Hứa Thận thời nhà Hán PHẢI ĐỌC THEO TIẾNG VIỆT ̣( đã biến thành mấy phương ngôn Việt ngày nay ).../ Nếu như đọc theo tiếng "Mandarin-quan thoại" thì : thứ nhất là đánh vần sẽ sai , thứ hai là đọc được 1 it́ chữ trùng hợp thôi , và thứ ba là có chữ sẽ không đánh vần phiên âm được : Điều nầy có thể kiểm chứng dễ dàng bằng cách mở sách "thuyết Văn" của Thời Hán ra mà Đọc thử ...
=>Và ĐƯỜNG THI Với TỐNG TỪ PHẢI ĐỌC THEO CÁC PHƯƠNG NGÔN VIỆT ...mới đúng vần , mới hay...
-...=>Và KHỔNG TỬ DẠY HỌC BẰNG NHÃ NGỮ tiếng VIỆT( 雅語) , NHÀ CHU VÀ NHỮNG NƯỚC THỜI XUÂN THU -CHIẾN QUỐC PHẢI DÙNG NHÃ NGỮ VIỆT ĐỂ LÀM TIẾNG "PHỔ THÔNG'' KHI GIAO THIỆP...LIÊN LẠC , tất cả những điều nầy được ghi trong nhiều cổ thư , bằng chứng vẫn còn đó và qúa nhiều bằng chứng ...
Tất cả sách diển giải sử của từng thời đại đều khó thoát khỏi "tư tưởng sử" của THẾ LỰC Chính Trị của mỗi 1 thời đại ! Nhưng hãy dùng khoa học nghiên cứu về NGÔN NGỮ , PHONG TỤC , khảo cổ , di truyền , tôn gíao ,thiên văn , địa lý , toán học v v... để lý giải bằng tinh thần Chân , Thiện , Mỷ thì lịch sử sẻ ̣được sáng tỏ ...; Chúng ta không có máy thu âm thời cổ sử để lưu lại tiếng Việt thời xưa : Nhưng đã có VIỆT TUYỆT THƯ , và có thể tham khảo Chiến Quốc Sách , Ngô Việt -Xuân Thu , Tứ Thư -Ngủ Kinh , Thuỷ kinh chú ,Tiền Hán Ký , Hán Thư , Sử Ký , Tống Sử , Minh Sử , Thanh Sử -Tứ Khố Toàn Thư , Quảng Châu Ký v v...và bên cạnh sách sử của nước Việt-Nam ; Về văn hóa dân gian còn có những bài Đường Thi , Tống Từ , còn Việt Kịch của Giang-Tô , Chiết Giang , những văn hóa , và phong tục dân gian ...và đặc biệt là có sách "Thuyết Văn " với ghi chú cách đánh vần Việt rõ ràng ở thời nhà Hán của Hứa Thận , cộng thêm có nhiều ngôn ngữ Bách Việt còn tồn tại cho đến ngày nay như Bộc Việt ,Ngô Việt , Mân Việt , Lê Việt ̣( tiếng của người dân sống trên đảo Hải Nam ) ,Lạc Việt , Việt v v..., Tất cả chi tiết trên đã là bằng chứng sống động cho thấy Văn Hóa người Việt đã trải rộng và đồng hóa biết bao dân tộc khác ở Trung Quốc từ ngàn xưa cho đến hiện thời...; Những sự ngộ nhận và diễn giải sai lầm ý nghiã chung quanh chữ Hoa và Việt bởi các thế lực chính trị để tranh dành vai trò "chính Thống" và "quyền lực" đã làm gây ra phân ly và chiến tranh và đau khổ cho biết bao muôn dân của đại gia đình Bách Việt.
Có 1 thuyết cho rằng nước Việt cuả vua Câu Tiễn không phải là con cháu của vua Vũ nhà Hạ như Việt Tuyệt thư đã ghi chép , vì vua Việt mang họ Mi , sau đổi họ Lạc , trong khi nhà Hạ mang họ 姒-Tự, lập luận nầy rất quan trọng và cần chú ý , Xưa hay đỗi họ do được phong Quan và Đất v v..Các đời tổ tiên trước cuả Vua Vũ cũng thay đổi Họ nhiều lần , Thuyết trên không đủ bằng chứng thuyết phục để bãi bỏ những gì đã được ghi chép trong Việt Tuyệt thư , bỡi vì Việt thư ghi chép qúa rõ ràng ; muốn phủ nhận Việt thư không phải là dễ .
Có thuyết cho rằng người Việt là Thổ dân lâu đời ở 1 vùng rộng lớn , lập ra nhiều nước Việt nhỏ và trong đó có nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn , thuyết nầy được các nhà nghiên cứu sử "tin Cậy" hơn , bởi vì khảo cứu theo thực tế lịch sử thì nhóm Việt cư trú trên địa bàn qúa rộng .
Tại sao người ta không nhập 2 thuyết làm 1 ? Và Còn chuyện đổi họ vẫn đầy dẫy trong lịch sữ xa xưa cũng như sau nầy , họ Mi , họ Lạc cũng đổi làm họ ÂU và Âu_Dương ở vùng Âu giang của Âu Việt , Họ Mi cũng đổi thành Họ Sở ..., Họ LẠC khi chạy loạn cũng đổi thành họ LA , Họ LAI để giữ an toàn ... ; Và từ cổ xưa cũng thế thôi , ở đâu thì gọi theo tên đó lâu ngày thành họ mới , đất Trịnh , đất Triệu , đất Ngụy v v...đều tạo ra họ mới ; xưa có họ Cơ là vì sống ở sông Cơ , lâu ngày thì được gọi là Cơ , Họ Khương là vì ở sông Khương V v....; nên nghĩ đến là nhóm Việt trải rộng trên 1 địa bàn bao la bởi vì giỏi dùng ghe thuyền , cho nên theo bờ biển và theo dòng sông di chuyển , di cư rất dễ dàng ? Dù không phải là du mục , nhưng còn phương pháp du canh đốt rừng làm rẫy , đễ tỉa lúa khô , trồng kê , bắp , đậu , khoai trên cạn ...cũng đòi hỏi phải di chuyển hoài để đốt rẫy mới là có thu hoạch tốt hơn cho mùa trồng tỉa kế tiếp , như hiện nay chúng ta vẫn hiểu và thấy rõ qua lối du canh , du cư , ... Câu "khoai đất lạ , mạ đất nhà " cũng là 1 lý do để phải "di cư " ..., hiện nay thì việc trồng lúa và nuôi heo đã được xác định là của Việt tộc biết làm sớm nhất... , gia đình , dòng họ , gia phả , xã hội , đời sống và thực phẩm phong phú , ở đâu có người Việt là ở đó có trái bầu và rau qủa v v..., văn minh nông nghiệp cũng tạo ra âm lịch và quan sát thời tiết , bầu trời , thiên văn-địa lý , sau nầy còn có đoàn quân Hổ và Voi ra trận xông pha chiến trường của Mạnh Hoạch và của Hai bà Trưng , đời sống thực tế cuả người Việt mới thật là lạ và hay cho những sáng kiến và ứng dụng , thuyết nhất nguyên Thái cực sinh lưỡng nghi của vùng đất Sở thật là cao thâm khó lường , vẽ bùa và thần chú của vùng Mao-Sơn (Cối-kê) , yêu tinh hay thần thánh nhập xác người dùng cây nhọn xuyên gò má , xuyên lưỡi , cắt lưỡi lấy máu làm bùa vùng Phước kiến- Triều châu thật lạ lùng đặc biệt , gọi hồn , xem phong thủy địa lý , tử vi , bói toán thuật số , thư-trấn-yếm bùa đối với người và công tr̀inh xây dựng thật là huyền bí , nghiên cứu võ công , thế trận-binh thư , nhạc cụ , thi ca , tiên tri , khoa học v v..., chế tạo thuốc pháo , giấy , xe , ghe , nhà sàn , thành quách -cung đình , đền thờ- lăng tẵm , vũ khí , mỹ phẩm , y dược v v...; những người khảo cứu lịch sử Bách- Việt còn hay nhắc lại những phát hiện người Việt giỏi dùng ghe , thuyền di chuyển trên sông biển và trồng lúa , cắt tóc ngắn để dễ làm việc đồng áng ở ruộng lúa nước ... ? có tục xâm mình , vẽ mặt , đội lông chim (điều nầy cũng thấy rõ ở thổ dân Châu ÚC và Châu Mỹ La-tinh), quan niệm sống là "THiên" và "NHân" hợp nhất , khi làm lễ cúng tế thì ca hát và nhảy múa , những từ ngữ "chìa khoá" cuả tiếng Việt có liên hệ với nhóm ngữ hệ nam đảo Thái Bình Dương v v...; người ta ước tính rằng ngày xưa 1 chiếc thuyền buồm (không có́ máy móc cơ khí như hiện nay ) nếu xuất phát từ vùng Cối -kê / Hàng Châu thì chỉ trong vòng 1 tuần lễ là đến nước Nhật hiện giờ...
Tiếng Việt thời tiền sử là đa âm , rồi biến dần thành đơn âm , tôi không dám lạm bàn nhiều hơn , không dám đụng đến "chuyên khoa" ngôn ngữ học với mớ kiến thức Lơ-tơ-mơ cuả mình ," lang -thang " và "lênh- đênh" trên 1 biển tài liệu cổ sử Bách Việt , khảo cứu và đối chiếu với thực tế là sở thích cuả tôi để tìm cội nguồn tổ tiên , chuyện nầy rất là bình thường đối với tôi và với biết bao người khác , bài khảo cứu của tôi sẽ chẳng mang lại lợi lộc vất chất gì ! sẽ chẳng có danh hay lợi gì để bóp méo sự thật , chỉ là những lời tâm tình và chia sẻ công khai để mong những người có tâm huyết nghiên cứu sẽ đưa ra những bằng chứng mà phê phán cho tôi biết là tôi hiểu đúng hay là Sai ...???
Khi qúi vị đọc bài viết nầy : xin phép cho tôi nhắc lại Ca dao Việt ...để thấy người Việt Ngày xưa với tiếng Việt đã từng sống ở đâu ...
_Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
Trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
...Bống bồng bông , bống bồng bông
Võng Đào mẹ bế con Rồng cháu Tiên
...Và
_Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
( Động Đình Hồ là hồ nước lớn chính giữa 2 tỉnh Hồ Bắc và Hồ Nam ; Thái Sơn là ngọn núi hùng vĩ ở bán đảo Sơn Đông ).
Và...
Nước đóng băng khi thời tiết băng giá , khi băng tan rồi thì băng lại là nước ..., với thành tựu khoa học và văn hóa khiêm tốn của nhân loaị ngày nay cũng đã bắt đầu vén được bức màn bí mật của DNA và của lịch sử ; trong tương lai thì lịch sử Việt hóa , và lịch sử Việt tiến hóa như thế nào từ xưa cho đến nay ...cùng với những trang sử bị cải biên hay bị ngộ nhận chắc chắn sẽ được làm sáng tỏ rõ ràng. _Một ngày nào đó ...tất cả tiếng Việt : gồm Hoa ngữ- Phổ Thông -Bắc Kinh của phương bắc ,Bộc Việt-Hakka ,Ngô Việt-Tô Châu , Thượng Hải , Dương Việt-Vùng Kinh Sở và Dương Châu , Giang Tây , Mân Việt-Phước kiến , Triều Châu , Lôi Châu , Lê Việt-Hải Nam , Việt-Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam ,_một ngày nào đó _Vì lý do "Toàn cầu hóa" , hay vì khoa học vi tính và "bàn phím đánh máy hóa" mà tất cả các tiếng Việt nêu trên được đánh vần chung 1 phương cách và bằng cùng 1 loại mẩu tự La-tinh A B C ...thì tât́ cả Việt ngữ nêu trên sẽ lại quay về 1 gốc Việt thống nhất ;Và đó cũng là cách học và hiểu các Việt Ngữ khác biệt nhau hiện nay của tôi là cứ việc phiên âm tất cả trở thành tiếng Việt A B C... thì sẽ thấy được sự tương đồng hay tương đương với tiếng Việt gốc của cá nhân gia đình mình đang dùng- thì sẽ dễ học và dễ hiếu lắm !
Nhạn Nam Phi ( Thanh Đỗ ) .
Ghi chú của trang chủ Blog-web này .
-Sách Thuyết văn giải tự được Hứa Thận viết ở thời Đông Hán .( Đông hán ≠Tây hán ).
-Một số thông tin Lịch sử – địa danh và chủng tộc trong bài là kiến giải riêng của tác giả Nhạn nam Phi xin đăng nguyên văn để bạn đọc tham khảo.