Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

» Đầu non
by Admin Yesterday at 9:39 am

» Trời xanh -mây trắng -núi hồng (hình chụp ở Mĩ)
by Admin 22/3/2024, 2:26 pm

» Nước họ Hùng Bắc thuộc lần thứ I và thứ II.
by Admin 20/3/2024, 1:36 pm

» Lẩn thẩn ...Tiền Hậu , Đông Tây ...không thể nối .
by Admin 13/3/2024, 11:09 am

» Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác .
by Admin 1/3/2024, 4:52 pm

» Suy nghĩ về cặp đôi Nam – Nữ
by Admin 24/2/2024, 4:58 pm

» 2 chuyện cần bàn thêm
by Admin 23/2/2024, 2:39 pm

» Sử Việt 2 chuyện cần bàn .
by Admin 22/2/2024, 11:49 am

» Cẩn thận Chữ với nghĩa
by Admin 13/2/2024, 2:59 pm

» tết...ta
by Admin 9/2/2024, 4:39 pm

Gallery


bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG . Empty

March 2024

MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031

Calendar Calendar

Khách thăm



bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG . Flags_1



    bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG .

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1185
    Join date : 31/01/2008

    bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG . Empty bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG .

    Bài gửi by Admin 8/5/2012, 5:56 pm

    Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG .

    Triều nhà Hiếu và triều Đường thời trung đại được coi là tiêu biểu cho 2 từ Trung Hoa.

    Kế sau triều Hiếu là chuỗi thời gian sóng gió và tủi hờn cho con cháu họ Hùng .

    Thời Vương Mãng, hoàng đế cuối cùng khi vận nước đã đến cơn bĩ cực thì chỉ 1 bọn lục lâm thảo khấu cũng đủ xô đổ tòa lâu đài Trung Hoa nguy nga đồ sộ mấy ngàn năm.

    18 Hùng triều chấm dứt đồng thời với sự khốn khó cho muôn dân .

    Trừ 60 năm khôi phục độc lập thời Lưỡng triều, dân Trung Hoa phải làm thân trâu ngựa cho các Đại Hãn gần 500 năm. Bắt đầu từ Lưu Manh Canh Thủy Đế tuyên lập Hãn Quốc ở vùng thượng lưu Hán Thủy năm 23 cho mãi đến năm 557 là năm Đinh Hoàng – Vũ văn Giác khôi phục quốc hiệu Chu.

    Chắt lọc trong ngôn ngữ Việt ta có hẳn 1 bộ sử tủi nhục và đau đớn dưới vó ngựa các Khả Hãn.

    - Thời giặc cỏ – Lục Lâm Thảo Khấu:

    + Tây Hãn của hãn Lưu Huyền = Lu mun = Lưu Manh.

    + Đông Hãn của hãn Lu tối (Lưu Tú).

    - Thời giặc giả –

    + Ngụy quốc của người Tào Lao (Từ Liêu ).

    - Thời ‘Đầu Trâu Mặt ngựa’

    +Tấn quốc của bọn Tây Mã

    Tộc Kim – Mãn đã gây cho người Trung Hoa nỗi tủi nhục cùng cực, ấn tượng trong ngôn ngữ Việt bởi các từ ghép với chữ Căm (biến âm của Kim) như: Căm thù, Căm giận, Căm hận, Căm tức, Căm hờn , oán Căm V.v… Cũng như với tộc Tác Ta 1 chi của Hung Nô được tặng các từ Tức bực, Tức giận, Tức tối nhưng không dân nào “được” khắc sâu trong lòng dân Việt – Hoa như người Hung vua Hãn với hàng loạt từ : Hung Hãn , Hung ác, Hung dữ, Hung tàn, Hung tợn, Hung hiểm V.v…

    Lịch sử tàng chứa trong ngôn ngữ dân gian chắc chắn là chính xác tuyệt đối, 1 chứng lý không thể bài bác được trong tiềm thức người Việt chưa bao giờ ‘dị ứng’ với từ “Trung Hoa” ; không có 1 từ nào thể hiện ác cảm được tạo ra từ ‘Hoa’, không những không dị ứng mà còn ngược lại nữa như: các vua quan thời quân chủ Việt Nam luôn lấy điển tích của các bậc minh quân, chúa hiền Trung Hoa làm gương soi mình, dân chúng Việt thì say mê với các tuồng cổ Trung Hoa, chữ Nho được gọi là chữ thánh hiền V.v…

    Đọc những câu thơ lịch sử của Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh ta biết sự “vặn cổ” lịch sử chắc chắn diễn ra sau thế kỷ 14 – không còn nghi ngờ gì nữa đó là thành tích của liên tục 3 đời vua Mãn Thanh là Khang Hy – Ung Chính – Càn long, trong đó bàn tay Càn Long là nhơ nhớp nhất ...... nhưng rồi vải thưa làm sao che được mắt thánh.

    b . Thay lời kết .

    Nhận diện dòng giống HÙNG .

    bài 37 - Phụ chương Sử thuyết họ HÙNG . Gw483h10

    Việt nam là nước duy nhất kế thừa chính thống cả dòng máu và văn hóa - văn minh họ Hùng . Lạc Việt hay Việt ‘ Nước’ ở bắc và bắc trung Việt ngày nay là đất Phong của Văn vương , cũng là Lạc ấp kinh đô của Đông Chu . ‘Nước’ là tên riêng sau người Việt biến thành danh từ chung đồng nghĩa với ‘quốc’ của Hoa ngữ , trong lịch sử dòng giống Việt thì từ Lạc Việt có khi được mở rộng bao gồm cả nhánh Nam Việt ở Quảng Tây , Lạc Việt chính là cái gốc của cả dòng giống Việt tức Bách Việt .
    Ngoài ra Con cháu nhà Hùng hiện chìm khuất trong hai cái bóng gọi là văn hoá Trung hoa và Ấn độ .

    Trong thiên khảo luận này chúng ta đã phác họa nét cơ bản của một lịch sử bao quát và xuyên suốt về dân tộc có bề dày lịch sử lâu dài nhất trên địa cầu.

    Ngoại trừ Lạc Việt là cái gốc , Xin thay lời kết cho thiên Hùng sử bằng sự nhận diện những cộng đoàn con cháu nhà Hùng ngày nay hay gọi là Bách Việt.

    A . Khối lẩn khuất dưới bóng văn hoá Hán hoa :

    1 . Quý Việt hay Cửu Việt ở tứ xuyên Trung quốc ngày nay , cổ thư Trung hoa thường thể hiện dưới tên Qùy Việt , cả qúy và cửu đều là số 9 chỉ phương tây trong dịch học.

    2 . Tủy Việt ở vùng lưỡng Hồ (Hồ bắc và Hồ nam); đây là danh xưng tam sao thất bản của Sở Việt , Hồ bắc và Hồ nam là đất Kinh Sở thời nhà Chu . Hồ bắc còn đất Tùy trung tâm Trung hoa thời nhà Tùy .

    3 . Dương Việt ở vùng Giang tây Trung quốc .Người Dương Việt là thành phần nòng cốt tạo nên những nước Ngô trong lich sử

    4 . Mân Việt ở Phúc kiến –Chiết giang tên cổ xưa từ thời nhà Hạ là Việt , đây là mảnh đất dành riêng thờ Hạ vũ tổ chung của dòng Việt.

    5 . Đông Việt ở Quảng đông là nước Tống Xưa , đất mà Chu vũ vương ban cho ông Vi tử làm đất riêng để thờ cúng các vua nhà Thương và Ân Thương. (Đa số sách sử gọi đất này là Nam Việt lấy tên nước của Triệu Đà để chi định ).

    6 . Nam Việt ở Quảng tây là đất Nam giao trong Kinh Thư sách lịch sử cổ xưa nhất của Trung hoa ,còn được gọi là đất Lâm biến âm của Lam , nam . Lâm ấp là thủ đô của vùng này thường bị hiểu sai là một địa danh ( tương tự Lạc ấp, Thương ấp .v.v.)

    7 . Di Việt ở Qúy châu Trung quốc là Kỳ sơn địa bàn cư trú của người Di lão hay Hữu Hộ thị sau khi bị Hạ Khải đánh đuổi vì bất phục ,đấy cũng là đất Thục của lịch sử thời Xuân thu – chiến quốc .

    8 . Điền Việt ở Vân nam là đất Mật tu xưa nơi đất trấn nhậm của Ninh vương thời Văn lang-Âu lạc , khi Ninh vương trở thành Chu vũ vương thì Hạo kinh đặt ở đất ấy ; còn dược gọi là đất Kiểu hay Cảo .

    9 . Nam Việt là nhánh Việt ở Nam giao chỉ gọi tắt là Nam Giao , Nam Việt là nhánh của người Âu vì Âu và Lạc đã thống nhất thành 1 nên từ Nam việt ( dùng theo nghĩa này ) ít được nhắc tới , người Âu thường được gồm luôn vào chi Lạc Việt .

    Ngoài ra còn những nhánh Việt ‘đặc biệt’ mà thỉnh thoảng tư liệu lịch sử nhắc đến một cách mơ hồ không thể xác định điạ bàn sinh trú là :

    Sơn Việt chưa xác định được nơi sinh trú .

    Chiêm Việt được cho là nhánh Việt trên đảo Hải nam Trung quốc ngày nay .

    Tuấn Việt (An nam chí lược – Lê Tắc) là nhánh Việt ở phía tây Giao chỉ , rất có thể họ là người nước Lỗ xưa , là tổ tiên người Lào Lùm và người Myama ngày nay . Tuấn là biến âm của Tốn , Tốn là 1 trong bát quái chỉ gió trấn hướng tây trong tiên thiên , nhánh Tuấn Việt có thể chính là những người đã lập ra nước Đốn Tốn hay Điền tốn sau công nguyên mà trong thư tịch Trung hoa chép ...phía tây giáp ấn độ , đông giáp Giao châu , nam có biển dài nghìn lí ...

    B . Khối theo văn hóa Ấn độ.

    1 . Trên lãnh thổ nước Lỗ xưa .

    Thái là tộc người nòng cốt xây dựng nên nước Nam Việt của Triệu Đà sau khi mất kinh đô và vùng đất phía đông là Quảng đông thì người Thái di tản sang phía tây , lấy đất Điện biên phủ Việt nam ngày nay làm trung tâm , trong khoảng 100 năm trước và 100 năm sau công nguyên thông qua hành lang điện biên họ đã tây tiến và làm chủ lãnh thổ rộng lớn của nước Lỗ xưa và ở đấy người Thái đã cùng cư dân bản địa là người Lỗ cũ đã dựng nên vương quốc tiền thân của 2 nước Thái và Lào ngày nay , thời Trung và cận đại Người Thái lấn đất của người Môn - Khơ me mở rộng lãnh thổ tới tận biển .

    Những người nước Lỗ không chịu khuất phục trước người Thái đã di cư về phía tây tới tận biên giới Ấn độ lập nên nước Đốn Tốn về sau trở thành dân cư của nước Myama và người Mun đa ở bang Assam – Ấn độ ngày nay .

    Thái lan là ký âm la tinh của Táy lương hay táy Long . chữ Long cho ta 1 chỉ dẫn quan trọng là ngườiThái lan hiện nay xưa gốc tổ là tộc My sinh trú ở ven động đình hồ hay biển Đông , là 1 trong 2 tộc người con cháu của Lạc Long quân đã lập nên triều Hùng Hoa –Hải lang .

    2 . Trên đất Yên xưa .

    Phía nam (ngày nay) Giao Chỉ là đất nằm về hướng xích đạo goị là đất Ôn hay nóng bức , nước ở đó gọi là nước Yên , Yên chỉ là biến âm cuả Ôn , còn có tên Việt là đất Phạm (?) .

    Quảng tây là đất Nam giao xưa , nước lập ở đấy gọi là nước Nam , thủ đô nước Nam gọi là đại ấp Nam , sử Tàu biến thành đại ấp Nam thành ra nước Lâm ấp lịch sử không hề có nước nào tên là Lâm Ấp .

    Khoảng thế kỷ thứ 2 sau công nguyên người nước Yên cũ đã phục quốc ,sử sách trung hoa gọi là nước Phù nam hay nước Phạm nhưng phần lãnh thổ bắc Yên cũ được dành cho người họ Hùng nước ‘Nam’ chạy giặc từ Quảng tây- Qúy châu về .

    Lãnh thổ ‘Lâm ấp’ là Miền trung Việt và nam Lào ngày nay, phía nam Lâm Ấp là nước Phù nam .

    . Phù nam thiết Phạm .

    Vì quốc gia lập ở đất Phạm nên Hoàng tộc cả Phù nam và Lâm ấp cùng mang họ Phạm .

    Chỉ 1 thời gian sau khi phục quốc Phù nam đã thống nhất với 1 quốc gia hùng mạnh khác của người Môn Khơme là Chân Lạp hình thành cường quốc bá chủ đông nam Á lục địa .

    3 / Trên đất Tề xưa :

    Chân Lạp là nước của người Môn tiền thân của nước tên Việt ngữ là Miên ngày nay ., Môn là biến âm của Mun nghĩa là màu Đen , đa Đen là đặc điểm nhân thể của người Cửu lê , Mun biến âm thành Môn, Miên .v.v.

    Thời hùng mạnh nhất Chân Lạp thống nhất với Phù nam thành 1 nước làm bá chủ đông nam á lục địa , đế quốc hùng mạnh này có tên theo âm la tinh là Chen la về sau Người tộc Thái từ phía bắc lấn xuống đánh bại người Môn - Khơ me chiếm phía bắc và tây Chân Lạp dựng nước Xiêm La tiền thân của Thái Lan ngày nay.

    Xiêm la nghĩa là nước Xiêm phía tây , La là tên quẻ Ly trong bát quái , từ thời nhà Chu thì Trung hoa dùng hậu thiên bát quái để định đất , Ly là quẻ trấn phía tây , Xiêm la và Chiêm thành ở phía đông hợp thành chỉnh thể lịch sử đông nam á trung đại .

    Xiêm la âm latinh là Chen la rất có thể cũng là nước mà hoa ngữ ký âm là Chân lạp ; như vậy nước Xiêm la có thể là tiền thân của cả Campuchia và Thái lan ngày nay .

    Trong việc chuyển dòng văn hoá ở phần đất Yên –Tề – Lỗ từ văn hoá văn minh họ Hùng sang văn hoá Ấn chắc chắn còn nhiều uẩn khúc mà lịch sử chưa sáng tỏ ,
    Chúng ta Không thể chấp nhận được sự việc vớ vẩn đã chép trong sử Tàu : khỏang giữa thế kỷ thứ 3 và thứ 4 sau công nguyên dân Phù nam đã ‘thỉnh’ một ông Ấn độ đến làm vua cai trị nước mình và những ông vua người Thiên trúc này trong khoảng 200 năm đã cải cách triệt để biến Phù nam thành nước ‘Thiên trúc... con’ , từ tôn giáo tới văn tự và cả đến cách ăn cái mặc nhất nhất đều y hệt ‘mẫu quốc’, sự thống trị và đồng hoá của người Thiên trúc hết sức nghiệt ngã còn hơn cả các đại hãn phương bắc nhiều lần đến độ sau khi phục quốc khoảng giữa những năm 400 người Phù nam không còn biết gì về dòng giống gốc gác mình .

    Cũng vì những ghi chép này của sử Tàu dân gian Việt đã lưu truyền câu tục ngữ : “rước voi về dày mả tổ”.

    Con voi hay con tịnh là con thú tượng trưng cho phương tây theo dịch học ,tịnh là đứng yên không thay đổi là đối lập của phương đông hay động tượng trưng bởi con rồng.

    Rước voi tức là rước người ở phía tây tới ở đây rõ ràng chỉ người xứ Thiên trúc ở phía tây địa bàn của dòng Hùng .

    Dày mả tổ nghĩa là nền văn hoá truyền từ đời ông đời cha đã bị chà đạp vùi lấp để thay bằng văn hóa văn minh Ấn độ.

    Thực đau sót vô cùng cho ngườihọ Hùng câu tục ngữ này dường như sát muối vào tim chúng ta.

    Phù nam đã có thời làm bá chủ trên phần đất Đông nam Á lục địa ngày nay chính vì điều này văn minh Thiên trúc đã phủ lấp khắp Đông nam Á như hiện thấy . .

    4 . Dòng Hùng biển đông .

    Trong cổ tích nhà Hùng có chuyện Mai an Tiêm và vùng đất ở biển Đông .. Truyền thuyết Việt thực không sót điều gì (xin đọc lại sự tích qủa dưa hấu).

    Tiêm cũng là Chiêm hay xiêm chỉ dòng tộc , Mai hay Mi là chỉ phương đông sớm mai , an là biến âm của ôn chỉ tính ôn nhiệt của vùng nhiệt đới xích đạo.

    Chiêm mai an là người Chiêm ở vùng Đông –bắc xưa tức đông nam ngày nay.; truyền tích cũng chỉ rõ Mai an Tiêm sống ở đảo vùng biển đông.

    Chắc chắn đây là truyền tích nhắn gửi cho người đời sau biết cư dân đông nam Á hải đảo cũng là con cháu dòng Hùng.

    Phân tích sắc màu quả dưa hấu theo ngũ sắc của dịch học : dưa hấu Xanh vỏ Đỏ lòng ;dù bên ngòai có vỏ xanh chỉ nơi sinh sống là hải đảo ngoài biển đông nhưng ruột đỏ nghĩa là dòng máu chảy trong người vẫn là máu Hồng của dòng tộc Lửa con vua Hùng.

    Một khi Biết rõ mình là ai , con cháu dòng Hùng sẽ vươn lên thoát khỏi cái bóng đang che phủ mình . Một ngày mới của nhân loại đang bắt đầu .


      Hôm nay: 29/3/2024, 1:32 pm