Bài thơ quan trọng nhất đặt ở bức hoành phi ngay gian giữa, bên dưới bức hoành phi lớn ghi chữ Thái Hòa Điện, được khắc trên gỗ, sơn son thếp vàng.
Nay đọc lại và suy ngẫm bài thơ thấy …ý tứ thật lạ kỳ .
文獻千年國
車書萬里圖
鴻厖開闢後
南服一唐虞
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu
Bài Tứ tuyệt này đã có nhiều bản dịch :
* bản dịch của Phạm Đức Thành Dũng :
Nước Việt đã ngàn năm văn hiến
Cơ đồ vạn dặm đã thống nhất hoàn toàn
Từ thuở Hồng Bàng mở nước
Trời Nam đã một cõi sánh với Đường, Ngu
* Bản dịch của nhà Sử học Dương Trung Quốc.
“Nước ngàn năm văn hiến
Vạn dặm một sơn hà
Từ Hồng Bàng mở nước
Thịnh trị nước Nam ta”
* 2 bản dịch khác
''Nước ngàn năm văn hiến
Đất vạn dặm hợp cùng
Đã mở mang lớn mạnh
Đường Ngu ở Nam phương''
Và
Nước ngàn năm văn hiến,
Thống nhất muôn dặm xa
Từ Hồng Bàng mở cõi,
Trời nam một sơn hà
Nhận xét :
ý tứ 3 câu đầu các dịch gỉa hiểu giống nhau hoặc ít ra sai khác không nhiều , riêng câu cuối bài thơ thì được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau , đôi khi khác rất xa ,
Xin góp bàn :
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu
Dịch
Quốc gia văn hiến ngàn năm có
Non sông vạn dặm một cơ đồ
Hồng bang khai quốc lập ngôi đế
Đường Ngu thu phục đất Nam Giao
Bài thơ được cho là của vua Minh Mạng nhà Nguyễn .
Trong bài trên theo thiển ý chữ Bàng trong Hồng bàng phải đổi thành Hồng bang thì câu thơ mới rõ nghĩa .
Thật là tuyệt vời Chỉ 4 câu thơ 5 chữ đã gói gọn được thông tin cơ bản về đất nước và Lịch sử thời đầu dựng nước của người họ Hùng .
Mở đầu với sự khẳng định nước Việt là …
* Câu 1 : Văn hiến thiên niên quốc
Đất nước này đã trải ngàn năm văn hiến từ thời đế Minh cũng là đế Vàng – Hoàng đế lập quốc , Ngàn năm là từ ước lệ dùng trong thơ văn chỉ quãng thời gian dưới vạn năm . Với lịch sử Việt tính từ thời lập quốc thì nay đã là 5 – 6 ngàn năm tuổi .
* Câu 2 : Xa thư vạn lý đồ
Thiên hạ từ thời nhà Châu về trước cấu thành bởi Trung hoa tức nước Trung tâm và văn minh nhất do vua trực tiếp cai trị cộng với các nước chung quanh gọi là chư hầu do qúy tộc được vua phân phong cai trị , qua thời gian dài vài trăm năm xa cách , theo quy luật tự nhiên mỗi nước hình thành nền văn hóa riêng thậm chí dần dần khác nhau tới nỗi người các nước nếu không học sẽ không thể giao tiếp bằng lời nói và chữ viết .
Tần thủy hoàng sau khi thống nhất Thiên hạ đã ra lệnh … ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ buộc cả thiên hạ phải thống nhất dùng 1 loại chữ viết gọi là Tiểu triện dân gian gọi là chữ Nhỏ ở Việt nam chữ Nhỏ biến âm thành ra chữ ‘Nho’ và để cho việc giao thông được thông suốt theo 1 chuẩn đường đi chung tất cả trục bánh xe trong Thiên hạ thống nhất chiều dài là 6 thước cổ khoảng 1,8 m ngày nay .
Từ tích ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ thời nhà Tần , trong bài cặp từ ‘Xa – Thư’ được dùng chỉ sự ‘đồng nhất’ về văn minh trongmọi miền đất nước …Non sông vạn dặm một cơ đồ .
* Câu 3 : Hồng bàng khai tịch hậu.
Tư liệu cổ sử Việt cho biết quốc đô đầu tiên thời lập quốc là Ngàn hống ở đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh sau mới dời về kinh đô thứ nhì ở Phong châu – Phú thọ ở Bắc bộ , từ đấy Ngàn Hống gọi là Cựu đô .
Tư liệu lịch sử Trung hoa chép thoạt kỳ thủy Trung hoa chỉ có đất Đào và Đất Đường , sử thuyết Hùng Việt cho Đào và Hồng là 1 , Đường cũng là Thường người Việt gọi là Việt Thường . Lãnh thổ trải dài theo chiều Bắc – nam ấn định theo độ nóng – lạnh , xưa hướng Bắc biến âm của Bức là hướng Xích đạo ; đào – hồng – xích đều là màu đỏ và đất Đào còn gọi là châu Đào thời đầu dựng nước nay là vùng Thanh Nghệ Tĩnh , dấu tích còn lại là dãy núi Hồng lĩnh , đất Đường – Thường dùng theo nghĩa nghĩa bình thường , thường thường chỉ hướng không nóng ngược với hướng Bức – nóng Xích đạo , Đất Đường hay Thường thời lập quốc là lưu vực sông Đà ngày nay , theo Dịch học hướng nóng có màu đỏ , hướng ngược lại màu đen vì thế mà sông Đà xưa còn có tên là Hắc thủy – sông đen hay sông mờ . Sông Đà cũng chính Đan thủy là nơi Hoàng đế đánh bại Hoan Đâu chúa Tam miêu trong cổ sử Trung hoa , Đan – Đơn chỉ là biến âm của Đen tiếng Việt .
Truyền thuyết Lịch sử Việt nói : Đế Minh cháu 3 đời của Thần nông Viêm đế đi tuần thú phương Nam chỉ ra đế Minh mở nước trước ở phương Bắc xưa hướng Xích đạo nóng – đỏ sau tiến về phương Nam – màu đen hoàn tất công cuộc dựng nước vĩ đại hoàn toàn đúng với câu :
Hồng bang khai quốc lên ngôi chúa
Hồng bang là bang quốc ở phía nóng – Xích đạo , ở phía ngược lại gọi là Nam bang .
* Câu 4 : Nam phục nhất Đường Ngu
Đây là câu thơ cực kỳ khó hiểu nhưng lại là cái chìa khóa mở thiên cổ sử Việt đích thực .
2 từ Đường – Ngu trong bài thơ không thể hiểu khác là chỉ 2 triều Đường Nghiêu – Ngu Thuấn của cổ sử Trung hoa , tại sao vua Minh Mạng lại đặt vào bài như là sự nối tiếp thời Hồng bàng khai tịch hậu ?.
Cổ sử Việt viết :đế Minh khi sau khi xây đựng xong kinh đô trên đất Đào tức hồng lính đi ‘tuần du’ phía Nam đã xây dựng ‘cơ sở’ 2 và lập hành cung trên đất Đường phương Nam (phương hướng xưa) , xong suôi vua trở về Hồng lĩnh .
Vua truyền ngôi đế cho con trai trưởng là ông Giao Thường tước hiệu là Đường vương , Đường vương kế ngôi sử gọi là đế Đừơng Nghiêu không đặt kinh đô trên đất Đào mà định đô ở hành cung của vua cha trước trên đất Đường tức Bắc ngày nay , triều đại của đế Đường Nghiêu gọi là Nam triều cũng có tư liệu gọi là Nam bang.
Sách Thượng thư chép vua Nghiêu …mệnh Hy thúc trạch Nam Giao tức lệnh cho Hy Thúc đến cõi đất phía Nam Giao chỉ .
Thực vậy chữ Nam Giao trong thượng thư nghĩa đích thực là đất phía nam (xưa nay là Bắc) Giao chỉ không phải nghĩa là…đất Giao chỉ ở phía Nam Trung quốc . Giao chỉ là 2 từ Việt ngữ bị ký âm sai lạc đi ; Giao là biến âm của Giữa , chỉ là chỗ , là nơi chốn , Giao chỉ nghĩa là miền đất ở giữa tức vùng Trung tâm Thiên hạ , theo mạch câu văn thì vua Nghiêu chỉ có thể từ vùng Giao chỉ – đất Giữa lệnh cho Hy Thúc đi đến phía Nam chứ không thể ở nơi nào khác và đất ở về phía Nam Giao (Bắc – Nam nay đã lộn ngược ) mà ông Hy Thúc đến chính là Đất Quảng Tây và Đông Vân Nam ngày nay . đất Nam Giao sau mở rộng thành cõi lĩnh Nam chứ không phải Lĩnh Nam là đất phía nam Trung quốc như đang hiểu .
Có người dịch câu Nam phục nhất Đường Ngu là người nước Nam kính phục nhất là 2 vua Đường Nghiêu – Ngu Thuấn .
Người Việt mà đi kính phục nhất 2 ông vua Tàu thì nước Việt làm sao có thể coi là …Văn hiến thiên niên quốc , lại nữa nếu hiểu như nghĩa này thì ý tứ câu thơ sau chẳng ăn nhập gì với câu trước … Hồng bàng khai tịch hậu xong kế tiếp là … dân Nam kính phục 2 ông vua Tàu ….thật chẳng ra nghĩa ngọn cả …
Xét tới đây thì câu : Nam phục nhất Đường Ngu với nghĩa “Đường Ngu thu phục đất Nam Giao” là có căn cứ lịch sử vững chắc : Đế Minh hay Hoàng đế lập quốc kế đến đế Nghiêu – Nghi và đế Thuấn mở rộng biên cương về hướng Nam hoàn toàn đúng với những gì chép trong sách xưa không phải là câu nói vu vơ .
Thắc mắc ...chuyện : xe và sách là chuyện của Tần thủy hoàng và nước Trung hoa đâu có dính dáng gì đến Việt Nam nên xa - thư biểu hiện của đất nước thống nhất chỉ đúng ở bên Tàu bên ta không dùng được trừ khi nhìn nhận con dân đại Việt Nam là hậu duệ đích dòng của Tam hoàng Ngũ đế .
Nay đọc lại và suy ngẫm bài thơ thấy …ý tứ thật lạ kỳ .
文獻千年國
車書萬里圖
鴻厖開闢後
南服一唐虞
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu
Bài Tứ tuyệt này đã có nhiều bản dịch :
* bản dịch của Phạm Đức Thành Dũng :
Nước Việt đã ngàn năm văn hiến
Cơ đồ vạn dặm đã thống nhất hoàn toàn
Từ thuở Hồng Bàng mở nước
Trời Nam đã một cõi sánh với Đường, Ngu
* Bản dịch của nhà Sử học Dương Trung Quốc.
“Nước ngàn năm văn hiến
Vạn dặm một sơn hà
Từ Hồng Bàng mở nước
Thịnh trị nước Nam ta”
* 2 bản dịch khác
''Nước ngàn năm văn hiến
Đất vạn dặm hợp cùng
Đã mở mang lớn mạnh
Đường Ngu ở Nam phương''
Và
Nước ngàn năm văn hiến,
Thống nhất muôn dặm xa
Từ Hồng Bàng mở cõi,
Trời nam một sơn hà
Nhận xét :
ý tứ 3 câu đầu các dịch gỉa hiểu giống nhau hoặc ít ra sai khác không nhiều , riêng câu cuối bài thơ thì được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau , đôi khi khác rất xa ,
Xin góp bàn :
Văn hiến thiên niên quốc
Xa thư vạn lý đồ
Hồng bàng khai tịch hậu
Nam phục nhất Đường Ngu
Dịch
Quốc gia văn hiến ngàn năm có
Non sông vạn dặm một cơ đồ
Hồng bang khai quốc lập ngôi đế
Đường Ngu thu phục đất Nam Giao
Bài thơ được cho là của vua Minh Mạng nhà Nguyễn .
Trong bài trên theo thiển ý chữ Bàng trong Hồng bàng phải đổi thành Hồng bang thì câu thơ mới rõ nghĩa .
Thật là tuyệt vời Chỉ 4 câu thơ 5 chữ đã gói gọn được thông tin cơ bản về đất nước và Lịch sử thời đầu dựng nước của người họ Hùng .
Mở đầu với sự khẳng định nước Việt là …
* Câu 1 : Văn hiến thiên niên quốc
Đất nước này đã trải ngàn năm văn hiến từ thời đế Minh cũng là đế Vàng – Hoàng đế lập quốc , Ngàn năm là từ ước lệ dùng trong thơ văn chỉ quãng thời gian dưới vạn năm . Với lịch sử Việt tính từ thời lập quốc thì nay đã là 5 – 6 ngàn năm tuổi .
* Câu 2 : Xa thư vạn lý đồ
Thiên hạ từ thời nhà Châu về trước cấu thành bởi Trung hoa tức nước Trung tâm và văn minh nhất do vua trực tiếp cai trị cộng với các nước chung quanh gọi là chư hầu do qúy tộc được vua phân phong cai trị , qua thời gian dài vài trăm năm xa cách , theo quy luật tự nhiên mỗi nước hình thành nền văn hóa riêng thậm chí dần dần khác nhau tới nỗi người các nước nếu không học sẽ không thể giao tiếp bằng lời nói và chữ viết .
Tần thủy hoàng sau khi thống nhất Thiên hạ đã ra lệnh … ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ buộc cả thiên hạ phải thống nhất dùng 1 loại chữ viết gọi là Tiểu triện dân gian gọi là chữ Nhỏ ở Việt nam chữ Nhỏ biến âm thành ra chữ ‘Nho’ và để cho việc giao thông được thông suốt theo 1 chuẩn đường đi chung tất cả trục bánh xe trong Thiên hạ thống nhất chiều dài là 6 thước cổ khoảng 1,8 m ngày nay .
Từ tích ‘Thư đồng văn , Xa đồng trục …’ thời nhà Tần , trong bài cặp từ ‘Xa – Thư’ được dùng chỉ sự ‘đồng nhất’ về văn minh trongmọi miền đất nước …Non sông vạn dặm một cơ đồ .
* Câu 3 : Hồng bàng khai tịch hậu.
Tư liệu cổ sử Việt cho biết quốc đô đầu tiên thời lập quốc là Ngàn hống ở đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh sau mới dời về kinh đô thứ nhì ở Phong châu – Phú thọ ở Bắc bộ , từ đấy Ngàn Hống gọi là Cựu đô .
Tư liệu lịch sử Trung hoa chép thoạt kỳ thủy Trung hoa chỉ có đất Đào và Đất Đường , sử thuyết Hùng Việt cho Đào và Hồng là 1 , Đường cũng là Thường người Việt gọi là Việt Thường . Lãnh thổ trải dài theo chiều Bắc – nam ấn định theo độ nóng – lạnh , xưa hướng Bắc biến âm của Bức là hướng Xích đạo ; đào – hồng – xích đều là màu đỏ và đất Đào còn gọi là châu Đào thời đầu dựng nước nay là vùng Thanh Nghệ Tĩnh , dấu tích còn lại là dãy núi Hồng lĩnh , đất Đường – Thường dùng theo nghĩa nghĩa bình thường , thường thường chỉ hướng không nóng ngược với hướng Bức – nóng Xích đạo , Đất Đường hay Thường thời lập quốc là lưu vực sông Đà ngày nay , theo Dịch học hướng nóng có màu đỏ , hướng ngược lại màu đen vì thế mà sông Đà xưa còn có tên là Hắc thủy – sông đen hay sông mờ . Sông Đà cũng chính Đan thủy là nơi Hoàng đế đánh bại Hoan Đâu chúa Tam miêu trong cổ sử Trung hoa , Đan – Đơn chỉ là biến âm của Đen tiếng Việt .
Truyền thuyết Lịch sử Việt nói : Đế Minh cháu 3 đời của Thần nông Viêm đế đi tuần thú phương Nam chỉ ra đế Minh mở nước trước ở phương Bắc xưa hướng Xích đạo nóng – đỏ sau tiến về phương Nam – màu đen hoàn tất công cuộc dựng nước vĩ đại hoàn toàn đúng với câu :
Hồng bang khai quốc lên ngôi chúa
Hồng bang là bang quốc ở phía nóng – Xích đạo , ở phía ngược lại gọi là Nam bang .
* Câu 4 : Nam phục nhất Đường Ngu
Đây là câu thơ cực kỳ khó hiểu nhưng lại là cái chìa khóa mở thiên cổ sử Việt đích thực .
2 từ Đường – Ngu trong bài thơ không thể hiểu khác là chỉ 2 triều Đường Nghiêu – Ngu Thuấn của cổ sử Trung hoa , tại sao vua Minh Mạng lại đặt vào bài như là sự nối tiếp thời Hồng bàng khai tịch hậu ?.
Cổ sử Việt viết :đế Minh khi sau khi xây đựng xong kinh đô trên đất Đào tức hồng lính đi ‘tuần du’ phía Nam đã xây dựng ‘cơ sở’ 2 và lập hành cung trên đất Đường phương Nam (phương hướng xưa) , xong suôi vua trở về Hồng lĩnh .
Vua truyền ngôi đế cho con trai trưởng là ông Giao Thường tước hiệu là Đường vương , Đường vương kế ngôi sử gọi là đế Đừơng Nghiêu không đặt kinh đô trên đất Đào mà định đô ở hành cung của vua cha trước trên đất Đường tức Bắc ngày nay , triều đại của đế Đường Nghiêu gọi là Nam triều cũng có tư liệu gọi là Nam bang.
Sách Thượng thư chép vua Nghiêu …mệnh Hy thúc trạch Nam Giao tức lệnh cho Hy Thúc đến cõi đất phía Nam Giao chỉ .
Thực vậy chữ Nam Giao trong thượng thư nghĩa đích thực là đất phía nam (xưa nay là Bắc) Giao chỉ không phải nghĩa là…đất Giao chỉ ở phía Nam Trung quốc . Giao chỉ là 2 từ Việt ngữ bị ký âm sai lạc đi ; Giao là biến âm của Giữa , chỉ là chỗ , là nơi chốn , Giao chỉ nghĩa là miền đất ở giữa tức vùng Trung tâm Thiên hạ , theo mạch câu văn thì vua Nghiêu chỉ có thể từ vùng Giao chỉ – đất Giữa lệnh cho Hy Thúc đi đến phía Nam chứ không thể ở nơi nào khác và đất ở về phía Nam Giao (Bắc – Nam nay đã lộn ngược ) mà ông Hy Thúc đến chính là Đất Quảng Tây và Đông Vân Nam ngày nay . đất Nam Giao sau mở rộng thành cõi lĩnh Nam chứ không phải Lĩnh Nam là đất phía nam Trung quốc như đang hiểu .
Có người dịch câu Nam phục nhất Đường Ngu là người nước Nam kính phục nhất là 2 vua Đường Nghiêu – Ngu Thuấn .
Người Việt mà đi kính phục nhất 2 ông vua Tàu thì nước Việt làm sao có thể coi là …Văn hiến thiên niên quốc , lại nữa nếu hiểu như nghĩa này thì ý tứ câu thơ sau chẳng ăn nhập gì với câu trước … Hồng bàng khai tịch hậu xong kế tiếp là … dân Nam kính phục 2 ông vua Tàu ….thật chẳng ra nghĩa ngọn cả …
Xét tới đây thì câu : Nam phục nhất Đường Ngu với nghĩa “Đường Ngu thu phục đất Nam Giao” là có căn cứ lịch sử vững chắc : Đế Minh hay Hoàng đế lập quốc kế đến đế Nghiêu – Nghi và đế Thuấn mở rộng biên cương về hướng Nam hoàn toàn đúng với những gì chép trong sách xưa không phải là câu nói vu vơ .
Thắc mắc ...chuyện : xe và sách là chuyện của Tần thủy hoàng và nước Trung hoa đâu có dính dáng gì đến Việt Nam nên xa - thư biểu hiện của đất nước thống nhất chỉ đúng ở bên Tàu bên ta không dùng được trừ khi nhìn nhận con dân đại Việt Nam là hậu duệ đích dòng của Tam hoàng Ngũ đế .