Xin trích một đoạn trong Sách Lộ Sử của La Bí đời Tống.viết về tộc người Thiên hạ thời Đông Hán cai trị :
“Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu .
Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nhà Đông hán theo sử Hán .
Thông tin trong đoạn trích trên xác định “Quan Tộc” vẫn ở Bờ bắc Hoàng Hà, vùng Sơn Tây Hà Bắc và nếu liên kết thông tin với địa lý- lịch sử thời “Ân Thương” thì ta buộc phải hiểu những dân mà Lộ sử gọi là Man là địch mới đích thị là người Trung Hoa, là hậu duệ của người Thời Ân Thương.
Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc :
– Phía nam là nước Quang . chính xác phải là nước Quan là từ dịch sang Hán văn từ Nom hay nhìn Việt ngữ.Hướng Nom - Nam xưa thuộc Huyền thiên màu Đen nay đảo ngược gọi là Bắc khi so với đất đai nhà Thương và Thương Ân vùng Trường giang và Hoài giang bao gồm cả Giang Nam .
Nước Quang tức Quan vua là Quang vũ hay Quan vũ , vũ là kí âm của vua từ Việt ngữ . Vua phương Nam bị hán sử ấm ớ thành vua 3 tầng Hãn- quang - vũ - đế Lưu tú tức lu tối - tối .
– Tương tự Phía bắc lãnh thổ nhà Thương là nước Thao , thao là biến âm của thiêu hay đốt cháy chỉ hướng Xích đạo nóng Bức thuộc Viêm thiên màu hồng của Lửa , nay cũng đã bị lộn ngược , nước Thao là đất chính của nhà Hạ hay Hè lãnh thổ kéo dài từ Giao chỉ qua hết vùng Lãnh Nam
– Phía đông là nước Từ. Từ là tên dịch của thương yêu chỉ phương Đông tình cảm theo Dịch học đất này còn vết tích là Từ châu ở bán đảo Sơn đông .
– Phía tây là nước Chu hay Châu ., thực ra là chiêu - chiều chỉ phía Tây mặt trời lặn ngược với bên Mục là bên mặt trời mọc nay là cao nguyên Vân Qúy cộng với đất Quảng Tây sau gồm cả Giao chỉ đất khởi phát nhà Hạ .
Xét thông tin địa lí trong Lộ sử thì rõ ràng nước Quan chính là Đông Hán của Lưu Tú Quan vũ đế lập ra ở vùng Sơn Tây Hà bắc sau mở rộng xuống vùng Hà Nam Sơn Đông dọc theo lưu vực Hoàng hà và Lộ sử cung cấp thông tin vô cùng quan trọng đối với lịch sử Thiên hạ là hầu như toàn bộ Sở Ngô Thục Ngụy tức lãnh thổ các nhà Hạ Thương Chu Tần hết thảy là đất của Rợ tức người Trung hoa theo nghĩa thông thường đang dùng là Rợ chính gốc không là Man thì là Địch còn Hán con dân các khan - hãn mới là tộc người văn minh chủ nhân của Trung quốc tức nước ở giữa Thiên hạ .
Tóm lại : Trung quốc của Hán tộc ngày nay không dính dáng gì với Trung hoa của Tam hoàng Ngũ đế xưa ngược lại thậm chí còn có thể là kẻ thù truyền kiếp của người Trung hoa .
Chính vì thủ đoạn của họ mà ngày nay không biết bao nhiêu người Trung hoa chính gốc đang chịu cảnh mồ cha không khóc khóc đống mối .
“Ngô Việt Sở Thục đều là đất man, các đất Tần Lũng Tấn ngụy đều đã thành đất của người địch, Hà Nam là đất man, Hà Tây là đất địch, Hoài thì có các rợ thư, Ngụy thì có các rợ nguy, chỗ nào cũng đầy dãy (Man địch), chỉ một Vương Thành ở Lạc Dương mà những người Nhung, Dương Cự, Tuyền Cao, Lục Hồn, Y Lực cũng ơ xen lẫn, trong ấy người “Quan Tộc”không có bao nhiêu .
Lạc dương trong đoạn sử này là thủ đô của Đông hãn quốc tức nhà Đông hán theo sử Hán .
Thông tin trong đoạn trích trên xác định “Quan Tộc” vẫn ở Bờ bắc Hoàng Hà, vùng Sơn Tây Hà Bắc và nếu liên kết thông tin với địa lý- lịch sử thời “Ân Thương” thì ta buộc phải hiểu những dân mà Lộ sử gọi là Man là địch mới đích thị là người Trung Hoa, là hậu duệ của người Thời Ân Thương.
Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc :
– Phía nam là nước Quang . chính xác phải là nước Quan là từ dịch sang Hán văn từ Nom hay nhìn Việt ngữ.Hướng Nom - Nam xưa thuộc Huyền thiên màu Đen nay đảo ngược gọi là Bắc khi so với đất đai nhà Thương và Thương Ân vùng Trường giang và Hoài giang bao gồm cả Giang Nam .
Nước Quang tức Quan vua là Quang vũ hay Quan vũ , vũ là kí âm của vua từ Việt ngữ . Vua phương Nam bị hán sử ấm ớ thành vua 3 tầng Hãn- quang - vũ - đế Lưu tú tức lu tối - tối .
– Tương tự Phía bắc lãnh thổ nhà Thương là nước Thao , thao là biến âm của thiêu hay đốt cháy chỉ hướng Xích đạo nóng Bức thuộc Viêm thiên màu hồng của Lửa , nay cũng đã bị lộn ngược , nước Thao là đất chính của nhà Hạ hay Hè lãnh thổ kéo dài từ Giao chỉ qua hết vùng Lãnh Nam
– Phía đông là nước Từ. Từ là tên dịch của thương yêu chỉ phương Đông tình cảm theo Dịch học đất này còn vết tích là Từ châu ở bán đảo Sơn đông .
– Phía tây là nước Chu hay Châu ., thực ra là chiêu - chiều chỉ phía Tây mặt trời lặn ngược với bên Mục là bên mặt trời mọc nay là cao nguyên Vân Qúy cộng với đất Quảng Tây sau gồm cả Giao chỉ đất khởi phát nhà Hạ .
Xét thông tin địa lí trong Lộ sử thì rõ ràng nước Quan chính là Đông Hán của Lưu Tú Quan vũ đế lập ra ở vùng Sơn Tây Hà bắc sau mở rộng xuống vùng Hà Nam Sơn Đông dọc theo lưu vực Hoàng hà và Lộ sử cung cấp thông tin vô cùng quan trọng đối với lịch sử Thiên hạ là hầu như toàn bộ Sở Ngô Thục Ngụy tức lãnh thổ các nhà Hạ Thương Chu Tần hết thảy là đất của Rợ tức người Trung hoa theo nghĩa thông thường đang dùng là Rợ chính gốc không là Man thì là Địch còn Hán con dân các khan - hãn mới là tộc người văn minh chủ nhân của Trung quốc tức nước ở giữa Thiên hạ .
Tóm lại : Trung quốc của Hán tộc ngày nay không dính dáng gì với Trung hoa của Tam hoàng Ngũ đế xưa ngược lại thậm chí còn có thể là kẻ thù truyền kiếp của người Trung hoa .
Chính vì thủ đoạn của họ mà ngày nay không biết bao nhiêu người Trung hoa chính gốc đang chịu cảnh mồ cha không khóc khóc đống mối .