bách Việt trùng cửu – nguồn https://hungvietsuquan.blogspot.com/2020/10/bai-tho-ve-tan-vien-son-thanh-trong.html
Mười tám nhánh Hùng đồ củng cố
Hai ngàn năm cuồn cuộn khí lành.
Tinh thần cốt cách ngọc Lăng Sương
Mở chốn Rồng thiêng xuống thế dương
Khí mạo to cao còn tỏ thánh
Phong tư đẹp gọn khác người thường.
Ba sinh hương lửa vừa mới thấy
Phong lưu một nét cổ gia đường
Sáu tuổi mẹ cha về vực thọ
Bảy năm phụng tự chốn yên hương.
Trở học chuyên cần nơi động cũ
Linh sơn hái củi lúc khi đang
Ngô đồng chặt hạ gặp tiên lão
Gậy thần thu nhận cứu dân làng.
Lũ trẻ bên đường xem giết rắn
Thần chú đọc ngay cạnh bến phương
Động Đình cùng tới đền công đức
Chia tay Ngọc Tản nghĩa bao nhường.
Muôn đồ vạn bạc đều không đủ
Một cuốn sách thần vật dị thường
Trời cao cơ diệu nên linh ứng
Phép lạ hiếm truyền từ đế vương.
Vàng bạc ngọc ngà cầu được ước
Gió mưa sấm chớp nổi khôn lường
Chí hiếu mẹ cha tuân phép đạo
Dưỡng mẫu tạ ơn cung kính dâng.
Lão mẫu non khe di chúc lại
Thần nữ khói hương để miếu đường
Mẹ con một nhà, đời khó sánh
Thần tiên vạn cổ cũng không thường.
Nơi núi thảnh thơi ngàn vạn trượng
An nhàn ba sáu điện cung quang
Thế thời vua trị, Đường Nghiêu thịnh
Quảng đại Sơn Tinh, Ngu Thuấn vang.
Nhường ngôi mới tìm cầu Hoa Mị
Thủy Tinh thù kết một mối trường
Côn kình nhằm chém nơi đầu núi
Thủy thổ tách phân, rùa sấu quăng.
Theo trời là Tiên, người là Thánh
Trung thần với nước, hiếu gia đường
Búa việt giao cầm, vua bái tướng
Dẹp giặc hai đàng rơi tuyết sương.
Vách đá núi cao khắc sự nghiệp
Vẻ vang ghi trúc bến sông Tương
Không ham làm khách trên trần thế
Muốn thành người ở chốn tiên phương.
Giúp nước một thời lo việc lớn
Hóa sinh cảnh hội lúc phi thăng
Hưng thịnh non sông cùng giữ mãi
Âm phù hộ quốc đạo thần vương.
Gió bụi đi qua nhàn một cuộc
Còn mãi đền đài giữ khói hương
Ngựa sắt thiên vương danh Phù Đổng
Đúc tướng người đồng thánh Thụy Hương.
Kìa như Tản Linh Sơn Thánh
là thánh, là tướng, là vua, là thầy, là tiên, là thần,
Lồng lộng sao! Vòi vọi sao!
Thật khó tả nổi.
Thuận việc cảnh đó ngàn vạn bái
Nguyện cùng trời đất phúc ghi văn.
Phiên âm
Thập bát diệp Hùng đồ củng cố
Nhị thiên niên(?) thuỵ khí uân nhân.
Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần
Bả thác Long linh giáng hạ trần
Khí mạo khôi ngang hỗn hiển thánh
Phong tư tuấn chỉnh dị thường nhân.
Tam sinh hương hoả tân tài kiến
Nhất chẩm phong lưu túc hữu nhân
Lục tuế nghiêm đường vi(?) thọ vực
Thất niên lăng lĩnh chỉ từ thân.
Thì hồi cố động tu cần học
Nhàn đáo Linh sơn tiện thái tân
Tiễn phạt ngô đồng phùng lão tẩu
Khâm thừa trúc trượng cứu sinh dân.
Lộ kiến hắc xà niêm mục thụ
Khẩu ngâm thần chú thố giang tân
Động Đình tương đáo thường công đức
Ngọc Tản nghinh lai tạ nghĩa nhân.
Trùng hoá vạn kim thường bất túc
Thần thư nhất quyển thụ kỳ chân
Huyền cơ linh ứng do thiên thượng
Bí pháp hy truyền tự đế quân.
Ước tức đắc kim ngân ngọc bảo
Chúc thi lai vũ điện phong vân
Tạ ân dưỡng mẫu tiên cung hiến
Chí hiếu từ thân địch phỉ cần.
Nhạc độc lão bà di chúc khế
Miếu đường thần nữ phó hương yên
Nhất môn mẫu tử trần vô đối
Vạn cổ thần tiên tục vị hoàn(?).
Sái lạc ức thiên vạn trượng nhạc
Tiêu dao tam thập lục cung xuân
Quốc vương long đại Đường Nghiêu? thịnh
Sơn thánh hồng hoằng Thuấn Ngu nhân.
Tốn vị phương cầu Hoa Mị phối
Kết nhân quang bản thuỷ tinh thần
Kình côn nhậm hướng sơn đầu đoạn
Miết ngạc không đầu thảo lý phân.
Thiên tắc tiên hề nhân tắc thánh
Gia vi hiếu tử quốc trung thần
Tuyết sương lưỡng lộ bình Man khấu
Phủ việt bát trì bái tướng quân.
Trúc bạch kiêm tương minh thịnh liệt
Sơn hà đới lệ ký nguyên huân
Lãn vi thế thượng trần ai khách
Hảo tác tiên bồng ngọc nhuận nhân.
Hộ quốc đẳng nhàn gian đại sự
Thăng thiên cảnh hội hoá sinh thân
Bảo đề tương dữ hưng đại? nhạ
Hộ quốc âm phù hữu đạo quân.
Xa giá phong trần nhàn nhất cục
Cung đài hương hoả thọ trường xuân
Phù Đổng thiên vương(?) dương thiết mã
Thuỵ Hương thánh tướng chú đồng nhân.
Kỷ hữu như Tản Linh Sơn Thánh
vi thánh vi tướng vi quân vi sư vi tiên vi thần,
đãng đãng hồ, nguy nguy hồ,
nan danh chi hỹ.
Tình cảnh niệm thuận thiên vạn bái
Nguyện đồng thiên địa phúc tư văn.
Thần tích Đinh Phi quốc mẫu của làng Tang Ma, tổng Phương Giao, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ.
Nguyên văn chữ Nho
十八葉雄圖鞏固二千千瑞氣氲氤
凌霜骨格玉精神把托龍靈降下陳氣冒魁昂渾顯聖丰姿俊整異常人
三生香火辛纔見一枕風流夙有姻六歲嚴堂為壽域七年崚嶺祇慈親
時回故峒須勤學閑到灵山便採薪剪伐梧桐逢老叟欽承竹杖救生民
路見黑蛇𢫈牧竖口吟神咒措江津洞庭相到償功德玉傘迎来謝義仁
重貨萬金償不足神書一卷授其真玄机灵應由天上秘法希傳自帝君
約即得金銀玉宝祝施来雨電風雲謝恩養母先供献至孝慈親迪棐勤
岳瀆老婆遺嘱契庙堂神女付香煙一門母子塵無对萬古神仙俗未回
洒落億年干萬丈岳逍遙三十六宮春國王隆大唐卢(堯?)盛山聖洪弘舜禺仁
遜位方求花媚配結仁光本水晶神鯨鯤任向山頭断鱉鱷空投草裡分
天則仙兮人則聖家為孝子國忠臣雪霜兩路平蛮窛斧越癶持拜將軍
竹帛縑湘銘盛烈山河帶礪記元勳懶為世上陈哀客好作仙蓬玉潤人
護國等閒艱大事升天景會化生身保題相與興?偌護國陰扶有道君
車駕風塵閒一局宫臺香火壽長春扶董天?揚鐵馬瑞香聖將鑄銅人
幾有如傘靈聖山聖為聖為將為君為師為仙為神蕩蕩乎巍巍乎難名之矣
情景念㥧千萬拜
願同天地福斯文
Ý của Văn Nhân .
Thế thời vua trị, Đường Nghiêu thịnh
Quảng đại Sơn Tinh, Ngu Thuấn vang.
Thời đế vương theo phép ‘thiện nhượng ‘ tức truyền hiền ; cổ sử ‘ Trung hoa’ nói đến ‘bộ 3’ Thánh đế Nghiêu – Thuấn – Vũ tức đế Đường Nghiêu truyền ngôi cho đế Ngu Thuấn rồì đế Ngu Thuấn truyền cho Đại Vũ.
…thật kì lạ bài thơ này lại … chỉ ra ‘bộ 3’ khác thường …Nghiêu – Thuấn – Sơn tinh ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho Sơn tinh của sử Việt chính là Đại Vũ chép trong sử Thiên hạ .
Tản viên Sơn thánh tức Sơn tinh còn tên gọi khác là Nguyễn Tuấn , ngài là con nuôi của bà Thần núi Ma thị Cao sơn ..
Ma thị cao Sơn đọc qua tưởng là họ và tên gười thực ra …Cao Sơn ở đây nghĩa là vua núi ý chỉ Sơn tinh còn Ma thị thiết Mị – mẹ , cụm từ bà ‘Ma thị cao Sơn’ thực nghĩa là bà ‘mẹ của vua Núi’ tức 1 danh hiệu .
Tương tự sử ‘ta’ viết mẹ của bà Trưng là bà Man thiện …thực ra chẳng có ai tên là Man thiện ; theo phép phiên thiết man thiện thiết miện biến âm của Mèn – Mèng bằng chứng miếu thờ bà gọi là miếu Mèn .
Mèn hay Mèng cũng không phải là tên riêng , người Việt nhất là miền Trung và miền Nam mở miệng ra là gọi Mèng ơi hay Mèn ơi … theo nghĩa mẹ ơi ., mèng cũng là mẹ vậy .
Xin nêu vài ý để bạn đọc thấy sự phức tạp vô cùng của sử liệu Việt … phức tạp lắm lắm …nhưng lại rất đơn giản nếu ta ‘có’́ chìa khoá .
như : Tản viên chính xác ra là Tán vương , Tán là cách gọi khác của quẻ Tốn tượng của phong – gíó chỉ phía Tây . Sử thuyết Hùng Việt cho Tán vương được chữ nghĩa hóa thành Tuấn lang chép trong đời Hùng Việt vương – Tuấn lang , danh hiệu này đã giúp khẳng định đức thánh Tản chính là Nguyễn Tuấn . từ Việt ở đây là Vượt ….ý rút ra từ kì tích của Sơn tinh … nước dâng lên cao thì núi vượt cao hơn,…. sau rốt Sơn tinh chiến thắng , ý nghĩa thực của sự kiện này trong lịch sử là … Đại Vũ trị thủy thành công … đầm Vân đầm Mộng đã có thể trồng cấy …
Mười tám nhánh Hùng đồ củng cố
Hai ngàn năm cuồn cuộn khí lành.
Tinh thần cốt cách ngọc Lăng Sương
Mở chốn Rồng thiêng xuống thế dương
Khí mạo to cao còn tỏ thánh
Phong tư đẹp gọn khác người thường.
Ba sinh hương lửa vừa mới thấy
Phong lưu một nét cổ gia đường
Sáu tuổi mẹ cha về vực thọ
Bảy năm phụng tự chốn yên hương.
Trở học chuyên cần nơi động cũ
Linh sơn hái củi lúc khi đang
Ngô đồng chặt hạ gặp tiên lão
Gậy thần thu nhận cứu dân làng.
Lũ trẻ bên đường xem giết rắn
Thần chú đọc ngay cạnh bến phương
Động Đình cùng tới đền công đức
Chia tay Ngọc Tản nghĩa bao nhường.
Muôn đồ vạn bạc đều không đủ
Một cuốn sách thần vật dị thường
Trời cao cơ diệu nên linh ứng
Phép lạ hiếm truyền từ đế vương.
Vàng bạc ngọc ngà cầu được ước
Gió mưa sấm chớp nổi khôn lường
Chí hiếu mẹ cha tuân phép đạo
Dưỡng mẫu tạ ơn cung kính dâng.
Lão mẫu non khe di chúc lại
Thần nữ khói hương để miếu đường
Mẹ con một nhà, đời khó sánh
Thần tiên vạn cổ cũng không thường.
Nơi núi thảnh thơi ngàn vạn trượng
An nhàn ba sáu điện cung quang
Thế thời vua trị, Đường Nghiêu thịnh
Quảng đại Sơn Tinh, Ngu Thuấn vang.
Nhường ngôi mới tìm cầu Hoa Mị
Thủy Tinh thù kết một mối trường
Côn kình nhằm chém nơi đầu núi
Thủy thổ tách phân, rùa sấu quăng.
Theo trời là Tiên, người là Thánh
Trung thần với nước, hiếu gia đường
Búa việt giao cầm, vua bái tướng
Dẹp giặc hai đàng rơi tuyết sương.
Vách đá núi cao khắc sự nghiệp
Vẻ vang ghi trúc bến sông Tương
Không ham làm khách trên trần thế
Muốn thành người ở chốn tiên phương.
Giúp nước một thời lo việc lớn
Hóa sinh cảnh hội lúc phi thăng
Hưng thịnh non sông cùng giữ mãi
Âm phù hộ quốc đạo thần vương.
Gió bụi đi qua nhàn một cuộc
Còn mãi đền đài giữ khói hương
Ngựa sắt thiên vương danh Phù Đổng
Đúc tướng người đồng thánh Thụy Hương.
Kìa như Tản Linh Sơn Thánh
là thánh, là tướng, là vua, là thầy, là tiên, là thần,
Lồng lộng sao! Vòi vọi sao!
Thật khó tả nổi.
Thuận việc cảnh đó ngàn vạn bái
Nguyện cùng trời đất phúc ghi văn.
Phiên âm
Thập bát diệp Hùng đồ củng cố
Nhị thiên niên(?) thuỵ khí uân nhân.
Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần
Bả thác Long linh giáng hạ trần
Khí mạo khôi ngang hỗn hiển thánh
Phong tư tuấn chỉnh dị thường nhân.
Tam sinh hương hoả tân tài kiến
Nhất chẩm phong lưu túc hữu nhân
Lục tuế nghiêm đường vi(?) thọ vực
Thất niên lăng lĩnh chỉ từ thân.
Thì hồi cố động tu cần học
Nhàn đáo Linh sơn tiện thái tân
Tiễn phạt ngô đồng phùng lão tẩu
Khâm thừa trúc trượng cứu sinh dân.
Lộ kiến hắc xà niêm mục thụ
Khẩu ngâm thần chú thố giang tân
Động Đình tương đáo thường công đức
Ngọc Tản nghinh lai tạ nghĩa nhân.
Trùng hoá vạn kim thường bất túc
Thần thư nhất quyển thụ kỳ chân
Huyền cơ linh ứng do thiên thượng
Bí pháp hy truyền tự đế quân.
Ước tức đắc kim ngân ngọc bảo
Chúc thi lai vũ điện phong vân
Tạ ân dưỡng mẫu tiên cung hiến
Chí hiếu từ thân địch phỉ cần.
Nhạc độc lão bà di chúc khế
Miếu đường thần nữ phó hương yên
Nhất môn mẫu tử trần vô đối
Vạn cổ thần tiên tục vị hoàn(?).
Sái lạc ức thiên vạn trượng nhạc
Tiêu dao tam thập lục cung xuân
Quốc vương long đại Đường Nghiêu? thịnh
Sơn thánh hồng hoằng Thuấn Ngu nhân.
Tốn vị phương cầu Hoa Mị phối
Kết nhân quang bản thuỷ tinh thần
Kình côn nhậm hướng sơn đầu đoạn
Miết ngạc không đầu thảo lý phân.
Thiên tắc tiên hề nhân tắc thánh
Gia vi hiếu tử quốc trung thần
Tuyết sương lưỡng lộ bình Man khấu
Phủ việt bát trì bái tướng quân.
Trúc bạch kiêm tương minh thịnh liệt
Sơn hà đới lệ ký nguyên huân
Lãn vi thế thượng trần ai khách
Hảo tác tiên bồng ngọc nhuận nhân.
Hộ quốc đẳng nhàn gian đại sự
Thăng thiên cảnh hội hoá sinh thân
Bảo đề tương dữ hưng đại? nhạ
Hộ quốc âm phù hữu đạo quân.
Xa giá phong trần nhàn nhất cục
Cung đài hương hoả thọ trường xuân
Phù Đổng thiên vương(?) dương thiết mã
Thuỵ Hương thánh tướng chú đồng nhân.
Kỷ hữu như Tản Linh Sơn Thánh
vi thánh vi tướng vi quân vi sư vi tiên vi thần,
đãng đãng hồ, nguy nguy hồ,
nan danh chi hỹ.
Tình cảnh niệm thuận thiên vạn bái
Nguyện đồng thiên địa phúc tư văn.
Thần tích Đinh Phi quốc mẫu của làng Tang Ma, tổng Phương Giao, huyện Thanh Thủy, Phú Thọ.
Nguyên văn chữ Nho
十八葉雄圖鞏固二千千瑞氣氲氤
凌霜骨格玉精神把托龍靈降下陳氣冒魁昂渾顯聖丰姿俊整異常人
三生香火辛纔見一枕風流夙有姻六歲嚴堂為壽域七年崚嶺祇慈親
時回故峒須勤學閑到灵山便採薪剪伐梧桐逢老叟欽承竹杖救生民
路見黑蛇𢫈牧竖口吟神咒措江津洞庭相到償功德玉傘迎来謝義仁
重貨萬金償不足神書一卷授其真玄机灵應由天上秘法希傳自帝君
約即得金銀玉宝祝施来雨電風雲謝恩養母先供献至孝慈親迪棐勤
岳瀆老婆遺嘱契庙堂神女付香煙一門母子塵無对萬古神仙俗未回
洒落億年干萬丈岳逍遙三十六宮春國王隆大唐卢(堯?)盛山聖洪弘舜禺仁
遜位方求花媚配結仁光本水晶神鯨鯤任向山頭断鱉鱷空投草裡分
天則仙兮人則聖家為孝子國忠臣雪霜兩路平蛮窛斧越癶持拜將軍
竹帛縑湘銘盛烈山河帶礪記元勳懶為世上陈哀客好作仙蓬玉潤人
護國等閒艱大事升天景會化生身保題相與興?偌護國陰扶有道君
車駕風塵閒一局宫臺香火壽長春扶董天?揚鐵馬瑞香聖將鑄銅人
幾有如傘靈聖山聖為聖為將為君為師為仙為神蕩蕩乎巍巍乎難名之矣
情景念㥧千萬拜
願同天地福斯文
Ý của Văn Nhân .
Thế thời vua trị, Đường Nghiêu thịnh
Quảng đại Sơn Tinh, Ngu Thuấn vang.
Thời đế vương theo phép ‘thiện nhượng ‘ tức truyền hiền ; cổ sử ‘ Trung hoa’ nói đến ‘bộ 3’ Thánh đế Nghiêu – Thuấn – Vũ tức đế Đường Nghiêu truyền ngôi cho đế Ngu Thuấn rồì đế Ngu Thuấn truyền cho Đại Vũ.
…thật kì lạ bài thơ này lại … chỉ ra ‘bộ 3’ khác thường …Nghiêu – Thuấn – Sơn tinh ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho Sơn tinh của sử Việt chính là Đại Vũ chép trong sử Thiên hạ .
Tản viên Sơn thánh tức Sơn tinh còn tên gọi khác là Nguyễn Tuấn , ngài là con nuôi của bà Thần núi Ma thị Cao sơn ..
Ma thị cao Sơn đọc qua tưởng là họ và tên gười thực ra …Cao Sơn ở đây nghĩa là vua núi ý chỉ Sơn tinh còn Ma thị thiết Mị – mẹ , cụm từ bà ‘Ma thị cao Sơn’ thực nghĩa là bà ‘mẹ của vua Núi’ tức 1 danh hiệu .
Tương tự sử ‘ta’ viết mẹ của bà Trưng là bà Man thiện …thực ra chẳng có ai tên là Man thiện ; theo phép phiên thiết man thiện thiết miện biến âm của Mèn – Mèng bằng chứng miếu thờ bà gọi là miếu Mèn .
Mèn hay Mèng cũng không phải là tên riêng , người Việt nhất là miền Trung và miền Nam mở miệng ra là gọi Mèng ơi hay Mèn ơi … theo nghĩa mẹ ơi ., mèng cũng là mẹ vậy .
Xin nêu vài ý để bạn đọc thấy sự phức tạp vô cùng của sử liệu Việt … phức tạp lắm lắm …nhưng lại rất đơn giản nếu ta ‘có’́ chìa khoá .
như : Tản viên chính xác ra là Tán vương , Tán là cách gọi khác của quẻ Tốn tượng của phong – gíó chỉ phía Tây . Sử thuyết Hùng Việt cho Tán vương được chữ nghĩa hóa thành Tuấn lang chép trong đời Hùng Việt vương – Tuấn lang , danh hiệu này đã giúp khẳng định đức thánh Tản chính là Nguyễn Tuấn . từ Việt ở đây là Vượt ….ý rút ra từ kì tích của Sơn tinh … nước dâng lên cao thì núi vượt cao hơn,…. sau rốt Sơn tinh chiến thắng , ý nghĩa thực của sự kiện này trong lịch sử là … Đại Vũ trị thủy thành công … đầm Vân đầm Mộng đã có thể trồng cấy …