Quan điểm của Sử thuyết Hùng Việt khi xem xét lịch sử Việt phải chú ý đến 2 vấn đề:
Đất không chân đất đứng , người có chân người đi
Vào thời Thái cổ đất rộng người thưa ; 1 cộng đồng người có thể lúc này sinh trú ở nơi này thời gian sau di cư đến sống ở nơi khác , phải cho đến thời điểm lập quốc thì vùng đất nhất định đang sinh trú mới được coi là lãnh thổ quốc gia thiêng liêng gắn liền với lịch sử của cộng đồng khi đã vươn mình trở thành 1 dân tộc.
Đến nay do qúa trình phát triển mở rộng , về mặt chủng tộc hầu như không còn quốc gia nào thuần chủng trên qủa đất , tất cả đều là quốc gia đa sắc tộc trong đó sắc tộc đông đảo nhất thường được coi là chủ thể lịch sử và văn hóa của cả dân tộc.bên cạnh là những nét riêng của cộng đồng thiểu số .
Ngay từ xa xưa Cổ sử Trung hoa cũng đã ché́p : bộ tộc của đế Hoàng trước sinh trú ở miền sông Khang sau dời đến miền sông Cơ … , tại đây bộ tộc của đế Hoàng hợp nhất với các bộ tộc của Si vưu và đế Viêm thành cộng đồng dân tộc ban đầu sau đó phảt triển về miền Đan thủy, thống nhất với bộ tộc Hoan Đâu con cháu của Xuyên Húc tổ tiên của người Mông – Dao hình thành nên quốc gia gọi là Hữu Hùng quốc .
Cũng 1 lãnh thổ quốc gia cũng gọi là Thiên hạ nhưng tùy theo triều đại mà vùng trung tâm thường là nơi đặt thủ đô có thể ở nơi này hoặc nơi khác , trong vùng sinh trú của sắc tộc này hay sắc tộc khác , Trong lịch sử Trung hoa vùng đất trung tâm này gọi là Trung quốc , dân sống ở Trung quốc gọi là người Hoa Hạ còn lại dân sống ở Tứ phương Thiên hạ gọi là người Di hạ . Xét ra trong tiến trình lịch sử Trung hoa không có sắc tộc nào là Hoa hạ hay Di hạ vĩnh viễn mà tùy từng triều đại mà thay đổi ; người Hoa Hạ thời nhà Hạ sang đời Châu đổi thành người Di ngược lại người nhà Châu trước là Tây Di sau Văn vương Vũ vương đánh đổ nhà Thương kiến lập triều Châu thì Tây di thành ra người Hoa hạ .
Ngày nay con cháu các đại Hãn bành trướng khái niệm Thiên hạ thành cả quả địa cầu và tự cho mình là Trung quốc , dân mình là Hoa hạ , tổng hợp lại thành danh xưng Trung Hoa dùng gọi quốc gia cũng được , gọi dân tộc cũng được hay gọi nền văn minh cũng được tuốt …dưới con mắt họ thì bàn dân thiên hạ ngòai người Tàu là Di hết …, ngoài Man Di họ thường chỉ người Việt còn vô số Di nữa ..nào là Di Mĩ Di Nga và có cả Di Ma rốc cốc keng ở châu Phi …
Miền đất gọi là lãnh thổ quốc gia không phải bất biến trong suốt qúa trình lịch sử mà tùy vào vận nước thịnh suy có lúc rộng lúc hẹp , Cũng có trường hợp cùng cực 1 dân tộc có thể mất hết lãnh thổ lịch sử phải di cư đến miền đất khác sinh sống hoặc tan rã phân tán đi khắp nơi . Trường hợp điển hình là của người họ Hùng; miền đất chính nơi con dân sinh sống bao đời và là nơi định đô của biết bao triều đại giờ nằm dưới móng ngựa quân thù man rợ , người họ Hùng nơi đấy qua nhiều đời đã bị tẩy não trở thành Rợ hay y như rợ dù thân xác vẫn là người họ Hùng , Hán hóa là đám …thịt Trung hoa hồn Mông Mãn luôn mồm gọi giặc là cha và khinh miệt tổ tiên mình là Man Di mọi rợ ; thật đáng thương thay !!!
Ở Việt Nam hiện có một số người hay nhóm người đã nhận ra : cổ sử Trung hoa chính là cổ sử của người Việt và đang cố gắng xác định những thông tin lịch sử thời cổ đại ngàn vạn năm trước trên thực địa Việt Nam .
Những nhận định đã công bố có thể đúng cũng có thể không đúng , dù thời lập quốc của họ Hùng thực sự ở nơi nào chăng nữa , trên mảnh đất thiêng con cháu còn giữ được hay ở nơi đã bị giặc thù chiếm mất không quan trọng bằng việc không gian lịch sử vẫn tồn tại trong tâm thức cộng đồng Việt , Rất có thể nhiều bộ phận người trong cộng đồng dân tộc Việt ngày nay tại 1 thời điểm nhất định đã Tái hiện không gian lịch sử thời lập quốc xa xưa vào không gian đang sinh tồn của mình . Chính vì như thế nếu không phải 1 mà có nhiều Thái sơn núi cha và suối nguền sông mẹ thì cũng chẳng có gì là lạ .
Về Thái sơn và Ngũ nhạc chép trong sách Tàu có điều phải bàn :
Trong nền văn minh Thiên hạ , Ngũ Nhạc tức 5 ngọn núi đánh dấu quê hương ở trung tâm và 4 phương , theo người Tàu thì Ngũ nhạc Trung hoa xưa nay là :
Đông nhạc là Thái sơn ở Sơn đông
Tây nhạc là Hoa sơn ở Thiểm tây
Nam nhạc là Hành sơn ở Hồ nam
Bắc nhạc là Hằng sơn ở Sơn Tây
Trung nhạc là Tung sơn ở Hà nam .
Chỉ liếc qua thôi bất kì ai đã học Dịch lí cũng sẽ nhận ra ngay cái sai trong kiểu Ngũ hành Tàu này , Thái sơn buộc phải ở vị trí trung tâm là vị trí của Thái cực không thể ở phía Đông chẳng ra thể thống gì .
Chiếu Theo lễ chế cổ xưa ….mỗi năm vào các ngày Đông chí Hạ chí và Xuân phân Thu phân nhà vua phải đến và làm lễ tế ở các núi đánh dấu 4 phương Thiên hạ đồng thời xem xét dân tình , thưởng người có công phạt kẻ có tội …, với Ngũ nhạc của Tàu kê rõ rành rành trên ́ thì chắc các vua thời Thái cổ hàng năm phải đi tế lễ 4 phương bằng máy bay phản lực Boeing …
Thực ra Ngũ Nhạc Tàu nói trên có thể là Ngũ nhạc của Đế chế Tần , không phải Ngũ nhạc của mọi thời đại , tùy thời hưng suy mà lãnh thổ quốc gia rộng hay hẹp và tùy theo hình thế của lãnh thổ từng thời mà có các Ngũ nhạc khác nhau tức có 1 Thái sơn khác nhau . Sử thuyết Hùng Việt cho Thái sơn thời Thái cổ trong truyền thuyết Trung hoa là núi Đọ ở đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh , Đọ viết thành Đại – Thái , Thái sơn hợp với sông Cả hay sông Cơ của đế Hoàng cũng là sông Lang tức sông vua mà ngày nay gọi sai thành sông Lam , bên cạnh có sông Chu chính xác là sông Cha và sông Mã tức sông Mẹ̣ ngoài ra còn 1 nơi linh thiêng ít ai để ý là hang Bua – hang vua và dãy Hồng lĩnh đánh dấu đất Đào thời Đào Đường xưa tất cả hợp thành 1 quần thể di tích lịch sử thiêng liêng của dòng giống được người đời sau khắc vào trời vào đ̣ất tạo ra pho sử bất họai lưu truyền mãi ãi ..
Xem ra như thế ngọn núi Thái công Cha và dòng suối Nguồn nghĩa Mẹ trong câu ca dao là ở đâu ?, thông tin núi Lịch ở Tuyên Quang theo ghi chép của Lê Quý Đôn, là nơi có Đế Thuấn đi cày có đích thực hay không không quan trọng bằng sự việc bản thân dòng chữ ắy , câu thơ ấy và danh tính các vì vua Thái cổ như Nghiêu Thuấn Vũ tồn tại trong não bộ người Việt ngàn vạn năm qua ,
Sự kiện lịch sử diễn ra có vô cùng quan trọng thì mới được khắc ghi trong não bộ và lưu truyền cho con cháu , đời trước truyền đời sau ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ …cho đến khi có người thâu lượm tổng hợp giải mã viết thành sách . điển hình như Không tử san định Ngũ kinh và nói rất rõ ràng …thuật nhi bất tác , Lĩnh Nam trích quái , Việt điện u linh ở Việt nam cũng chỉ ‘thuật nhi bất tác’ , là ghi chép lại những gì lưu truyền trong dân gian đã thău lượm không phải do tác gỉa sáng tác hay nghĩ ra thậm chí bịa đặt ra .
Về thông tin lịch sử thời cổ do hoàn cảnh lịch sử thực sự ở Việt Nam ngàn năm dưới gót giày giặc thù nên chẳng có cái bia Đá nào có thể tồn tại nhưng bia Miệng thì vô số ; ngoài Lĩnh Nam trích quái , Việt điện u linh và trên hết là các bản Hùng phả còn cả ngàn vạn thần tích thần phả đang lưu giữ trong các đền miếu khắp cả nước .
Tư liệu lịch sử cổ đạị Việt thực sự không thiếu , vấn đề là những tư liệu này được trân trọng và khai thác đến đâu . Hiện không phải ít người …hàng nội
đọc chưa hết đã phê ngay …Trâu ma rấn thần rồi quăng vào sọt rác mà không suy xét cho thấu đáo : trong hoàn cảnh mất nước thân là nô lệ tiền nhân không biến hóa thông tin Lịch sử thành ra….trâu ma rắn thần …thì liệu có dòng sử nào truyền cho con cháu đời sau ?, phải nói vỏ bọc tôn gíao là giải pháp cực kì thông minh của tiền nhân đã dùng để lưu truyền lịch sử ; Xa xưa là đạo giáo hay đạo thần tiên , gần hơn là đạo Phật ,… anh hùng dân tộc được các vị biến hóa thành anh hùng tôn giáo để thông tin về lịch sử dân tộc có thể ngang nhiên lưu truyền ngay trước mắt quân thù .
Thật là buồn khi cả pho sách Ngọc phả Hùng vương ngàn chữ thâu lượm tổng kết những điều lưu truyền trong dân gian bị coi như không mà lại đi đặt để lịch sử của cả dân tộc vào mấy hàng chử trâu ma rắn thần thứ thiệt trong sách Tàu .
… Vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN, ở vùng Gia Ninh (Phú Thọ) có người dùng ảo thuật khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Bạch Hạc, đặt tên nước là Văn Lang”….
Để rồi kết luôn như đinh đóng cột .
….Vậy nước Văn Lang chỉ tồn tại khoảng 300 năm với 18 đời vua là thực tế lịch sử thuyết phục – tức lịch sử Việt Nam chỉ khoảng 2.700 năm chứ không phải 4.000 năm như lâu nay vẫn được lưu truyền….
Không phải chỉ riêng chuyện Thái sơn mà hằng hà sa số thông tin lịch sử khác của sử Việt cần phải nghiêm túc xem xét lại .
Đất không chân đất đứng , người có chân người đi
Vào thời Thái cổ đất rộng người thưa ; 1 cộng đồng người có thể lúc này sinh trú ở nơi này thời gian sau di cư đến sống ở nơi khác , phải cho đến thời điểm lập quốc thì vùng đất nhất định đang sinh trú mới được coi là lãnh thổ quốc gia thiêng liêng gắn liền với lịch sử của cộng đồng khi đã vươn mình trở thành 1 dân tộc.
Đến nay do qúa trình phát triển mở rộng , về mặt chủng tộc hầu như không còn quốc gia nào thuần chủng trên qủa đất , tất cả đều là quốc gia đa sắc tộc trong đó sắc tộc đông đảo nhất thường được coi là chủ thể lịch sử và văn hóa của cả dân tộc.bên cạnh là những nét riêng của cộng đồng thiểu số .
Ngay từ xa xưa Cổ sử Trung hoa cũng đã ché́p : bộ tộc của đế Hoàng trước sinh trú ở miền sông Khang sau dời đến miền sông Cơ … , tại đây bộ tộc của đế Hoàng hợp nhất với các bộ tộc của Si vưu và đế Viêm thành cộng đồng dân tộc ban đầu sau đó phảt triển về miền Đan thủy, thống nhất với bộ tộc Hoan Đâu con cháu của Xuyên Húc tổ tiên của người Mông – Dao hình thành nên quốc gia gọi là Hữu Hùng quốc .
Cũng 1 lãnh thổ quốc gia cũng gọi là Thiên hạ nhưng tùy theo triều đại mà vùng trung tâm thường là nơi đặt thủ đô có thể ở nơi này hoặc nơi khác , trong vùng sinh trú của sắc tộc này hay sắc tộc khác , Trong lịch sử Trung hoa vùng đất trung tâm này gọi là Trung quốc , dân sống ở Trung quốc gọi là người Hoa Hạ còn lại dân sống ở Tứ phương Thiên hạ gọi là người Di hạ . Xét ra trong tiến trình lịch sử Trung hoa không có sắc tộc nào là Hoa hạ hay Di hạ vĩnh viễn mà tùy từng triều đại mà thay đổi ; người Hoa Hạ thời nhà Hạ sang đời Châu đổi thành người Di ngược lại người nhà Châu trước là Tây Di sau Văn vương Vũ vương đánh đổ nhà Thương kiến lập triều Châu thì Tây di thành ra người Hoa hạ .
Ngày nay con cháu các đại Hãn bành trướng khái niệm Thiên hạ thành cả quả địa cầu và tự cho mình là Trung quốc , dân mình là Hoa hạ , tổng hợp lại thành danh xưng Trung Hoa dùng gọi quốc gia cũng được , gọi dân tộc cũng được hay gọi nền văn minh cũng được tuốt …dưới con mắt họ thì bàn dân thiên hạ ngòai người Tàu là Di hết …, ngoài Man Di họ thường chỉ người Việt còn vô số Di nữa ..nào là Di Mĩ Di Nga và có cả Di Ma rốc cốc keng ở châu Phi …
Miền đất gọi là lãnh thổ quốc gia không phải bất biến trong suốt qúa trình lịch sử mà tùy vào vận nước thịnh suy có lúc rộng lúc hẹp , Cũng có trường hợp cùng cực 1 dân tộc có thể mất hết lãnh thổ lịch sử phải di cư đến miền đất khác sinh sống hoặc tan rã phân tán đi khắp nơi . Trường hợp điển hình là của người họ Hùng; miền đất chính nơi con dân sinh sống bao đời và là nơi định đô của biết bao triều đại giờ nằm dưới móng ngựa quân thù man rợ , người họ Hùng nơi đấy qua nhiều đời đã bị tẩy não trở thành Rợ hay y như rợ dù thân xác vẫn là người họ Hùng , Hán hóa là đám …thịt Trung hoa hồn Mông Mãn luôn mồm gọi giặc là cha và khinh miệt tổ tiên mình là Man Di mọi rợ ; thật đáng thương thay !!!
Ở Việt Nam hiện có một số người hay nhóm người đã nhận ra : cổ sử Trung hoa chính là cổ sử của người Việt và đang cố gắng xác định những thông tin lịch sử thời cổ đại ngàn vạn năm trước trên thực địa Việt Nam .
Những nhận định đã công bố có thể đúng cũng có thể không đúng , dù thời lập quốc của họ Hùng thực sự ở nơi nào chăng nữa , trên mảnh đất thiêng con cháu còn giữ được hay ở nơi đã bị giặc thù chiếm mất không quan trọng bằng việc không gian lịch sử vẫn tồn tại trong tâm thức cộng đồng Việt , Rất có thể nhiều bộ phận người trong cộng đồng dân tộc Việt ngày nay tại 1 thời điểm nhất định đã Tái hiện không gian lịch sử thời lập quốc xa xưa vào không gian đang sinh tồn của mình . Chính vì như thế nếu không phải 1 mà có nhiều Thái sơn núi cha và suối nguền sông mẹ thì cũng chẳng có gì là lạ .
Về Thái sơn và Ngũ nhạc chép trong sách Tàu có điều phải bàn :
Trong nền văn minh Thiên hạ , Ngũ Nhạc tức 5 ngọn núi đánh dấu quê hương ở trung tâm và 4 phương , theo người Tàu thì Ngũ nhạc Trung hoa xưa nay là :
Đông nhạc là Thái sơn ở Sơn đông
Tây nhạc là Hoa sơn ở Thiểm tây
Nam nhạc là Hành sơn ở Hồ nam
Bắc nhạc là Hằng sơn ở Sơn Tây
Trung nhạc là Tung sơn ở Hà nam .
Chỉ liếc qua thôi bất kì ai đã học Dịch lí cũng sẽ nhận ra ngay cái sai trong kiểu Ngũ hành Tàu này , Thái sơn buộc phải ở vị trí trung tâm là vị trí của Thái cực không thể ở phía Đông chẳng ra thể thống gì .
Chiếu Theo lễ chế cổ xưa ….mỗi năm vào các ngày Đông chí Hạ chí và Xuân phân Thu phân nhà vua phải đến và làm lễ tế ở các núi đánh dấu 4 phương Thiên hạ đồng thời xem xét dân tình , thưởng người có công phạt kẻ có tội …, với Ngũ nhạc của Tàu kê rõ rành rành trên ́ thì chắc các vua thời Thái cổ hàng năm phải đi tế lễ 4 phương bằng máy bay phản lực Boeing …
Thực ra Ngũ Nhạc Tàu nói trên có thể là Ngũ nhạc của Đế chế Tần , không phải Ngũ nhạc của mọi thời đại , tùy thời hưng suy mà lãnh thổ quốc gia rộng hay hẹp và tùy theo hình thế của lãnh thổ từng thời mà có các Ngũ nhạc khác nhau tức có 1 Thái sơn khác nhau . Sử thuyết Hùng Việt cho Thái sơn thời Thái cổ trong truyền thuyết Trung hoa là núi Đọ ở đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh , Đọ viết thành Đại – Thái , Thái sơn hợp với sông Cả hay sông Cơ của đế Hoàng cũng là sông Lang tức sông vua mà ngày nay gọi sai thành sông Lam , bên cạnh có sông Chu chính xác là sông Cha và sông Mã tức sông Mẹ̣ ngoài ra còn 1 nơi linh thiêng ít ai để ý là hang Bua – hang vua và dãy Hồng lĩnh đánh dấu đất Đào thời Đào Đường xưa tất cả hợp thành 1 quần thể di tích lịch sử thiêng liêng của dòng giống được người đời sau khắc vào trời vào đ̣ất tạo ra pho sử bất họai lưu truyền mãi ãi ..
Xem ra như thế ngọn núi Thái công Cha và dòng suối Nguồn nghĩa Mẹ trong câu ca dao là ở đâu ?, thông tin núi Lịch ở Tuyên Quang theo ghi chép của Lê Quý Đôn, là nơi có Đế Thuấn đi cày có đích thực hay không không quan trọng bằng sự việc bản thân dòng chữ ắy , câu thơ ấy và danh tính các vì vua Thái cổ như Nghiêu Thuấn Vũ tồn tại trong não bộ người Việt ngàn vạn năm qua ,
Sự kiện lịch sử diễn ra có vô cùng quan trọng thì mới được khắc ghi trong não bộ và lưu truyền cho con cháu , đời trước truyền đời sau ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ …cho đến khi có người thâu lượm tổng hợp giải mã viết thành sách . điển hình như Không tử san định Ngũ kinh và nói rất rõ ràng …thuật nhi bất tác , Lĩnh Nam trích quái , Việt điện u linh ở Việt nam cũng chỉ ‘thuật nhi bất tác’ , là ghi chép lại những gì lưu truyền trong dân gian đã thău lượm không phải do tác gỉa sáng tác hay nghĩ ra thậm chí bịa đặt ra .
Về thông tin lịch sử thời cổ do hoàn cảnh lịch sử thực sự ở Việt Nam ngàn năm dưới gót giày giặc thù nên chẳng có cái bia Đá nào có thể tồn tại nhưng bia Miệng thì vô số ; ngoài Lĩnh Nam trích quái , Việt điện u linh và trên hết là các bản Hùng phả còn cả ngàn vạn thần tích thần phả đang lưu giữ trong các đền miếu khắp cả nước .
Tư liệu lịch sử cổ đạị Việt thực sự không thiếu , vấn đề là những tư liệu này được trân trọng và khai thác đến đâu . Hiện không phải ít người …hàng nội
đọc chưa hết đã phê ngay …Trâu ma rấn thần rồi quăng vào sọt rác mà không suy xét cho thấu đáo : trong hoàn cảnh mất nước thân là nô lệ tiền nhân không biến hóa thông tin Lịch sử thành ra….trâu ma rắn thần …thì liệu có dòng sử nào truyền cho con cháu đời sau ?, phải nói vỏ bọc tôn gíao là giải pháp cực kì thông minh của tiền nhân đã dùng để lưu truyền lịch sử ; Xa xưa là đạo giáo hay đạo thần tiên , gần hơn là đạo Phật ,… anh hùng dân tộc được các vị biến hóa thành anh hùng tôn giáo để thông tin về lịch sử dân tộc có thể ngang nhiên lưu truyền ngay trước mắt quân thù .
Thật là buồn khi cả pho sách Ngọc phả Hùng vương ngàn chữ thâu lượm tổng kết những điều lưu truyền trong dân gian bị coi như không mà lại đi đặt để lịch sử của cả dân tộc vào mấy hàng chử trâu ma rắn thần thứ thiệt trong sách Tàu .
… Vào khoảng thế kỷ thứ 7 TCN, ở vùng Gia Ninh (Phú Thọ) có người dùng ảo thuật khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Bạch Hạc, đặt tên nước là Văn Lang”….
Để rồi kết luôn như đinh đóng cột .
….Vậy nước Văn Lang chỉ tồn tại khoảng 300 năm với 18 đời vua là thực tế lịch sử thuyết phục – tức lịch sử Việt Nam chỉ khoảng 2.700 năm chứ không phải 4.000 năm như lâu nay vẫn được lưu truyền….
Không phải chỉ riêng chuyện Thái sơn mà hằng hà sa số thông tin lịch sử khác của sử Việt cần phải nghiêm túc xem xét lại .