Triều đại của Cao Mật là thời bản lề , bắt đầu còn là quốc gia sơ khai và kết thúc khi thành 1 vương quốc , Cao Mật mất con là Khải kế ngôi lập ra triầu đại sử gọi là nhà Hạ , đế Khải tôn phong cha là tổ của vương quốc vì thế Cao Một được sử gọi là Đại Vũ tức vua Lớn .
* Đế Khởi nhà Hạ
Đế Khải – Khởi kiến lập triều đại Hạ là triều tiên khởi của vương quốc Thiên hạ , triều đại Hạ mất ngôi vào đời vua thứ 17 là Lí Qúi sử thường gọi là Hạ Kiệt vì vô đạo .
* Triều lang Thang nhà Thương và Thương Ân
Sau nhà Hạ là nhà Thương do vua Thương Thang kiến lập , dòng sử dân gian Việt gọi là lang Thang , lang là thủ lãnh Thang là vua Thành Thang .[size=18]vì nhà Thương cho tới đế Bàn Canh đã có tới 5 lần dời đô , việc rày đây mai đó đã đọng lại trong Việt ngữ thành từ kép lang Thang.[/size]
Triều đại Thương chấm dứt với vua Thọ Tân thường gọi là Trụ cũng do …vô đạo , rất có thể Trụ không phải là tên riêng mà trụ chỉ là biến âm của chủ chỉ vua trong tiếng Việt (vua cũng là bộ chủ) .
* Triều lang Văn và lang Ninh nhà Châu
Nhà Châu có nét riêng rất đặc sắc trong lịch sử Thiên hạ …lập quốc trước lập triều sau .
Ông Cơ Xương làm chức Tây bá hầu dưới triều Thương đã lần lượt từ đất được ban có vạn gia hay vạn hộ tự tiện mở rộng vùng đất mình làm chủ , trước tiên chiếm nước Mật Tu sau đánh bại Bắc bá Hầu và thâu tóm sảp nhập đất phía Bắc (xưa ngược với nay )Thiên hạ thành lập nước riêng Sử thuyết Hùng Việt cho chính là nước Âu – Lạc trong sử Việt , Lạc là đất của Bắc bá Sùng hầu Hổ nay là phần phía Bắc Việt Nam và Nam Quảng Tây , Âu là đất của người Ai lao Di (ai lao thiết âu) ở Tây Nam (nay) Trung quốc .
Dân gian gọi ông Cơ Xương là Lăng Xương tức lang Xương , ông còn có tên khác là lang Liêu như trong tích bánh Dày – bánh Chưng , Liêu là kí âm sai chữ Li – Lửa chỉ sắc dân vốn gốc ở cận Xích đạo nóng bức . Đặc biệt với người Việt Cơ Xương còn được gọi bằng 1 tên không thể nào quên là Văn lang , lang đồng nghĩa với vương , Văn lang chính là Văn vương , kế ngôi Cơ xương làm vua Âu lạc là Ninh vương Cơ Phát , sau Cơ phát diệt Thương Ân tức đời Thương II lên ngôi Thiên tử của Thiên hạ đã truy phong cha là Văn vương coi như vương tổ triều đại Châu , Âu Lạc cũng là nước Văn lang hay lang Văn theo nghĩa nước của vua Văn trở thành Trung – Hoa ( vùng trung tâm và văn minh) của Thiên hạ .
Cơ Phát tư liệu Việt chép thành Phán là vua thữ 2 nước Văn lang – Âu Lạc ̣ nhưng lại là Thiên tử đời đầu của nhà Châu (không tính vua cha là thời kiến lập) , ông Cơ Phát tước hiệu cũ là Ninh vương , sử liệu Việt gọi là Ninh lang cũng là Linh lang (do lẫn lộn âm N và L) , sau lang Linh – Ninh lên ngôi thiên tử sử gọi là Châu Vũ vương .
Nửa sau thời nhà Châu Thiên hạ đại loạn , bên cạnh Vương đạo xuất hiện Bá đạo , Vua trở thành bù nhìn giữ Cửu đỉnh tượng trưng cho Thiên hạ truyền từ thời Đại Vũ còn Chư hầu mạnh được yếu thua mặc sức cắn xé nuốt chửng nhau cuối cùng tất cả rơi vào tay Tần , Tần vô đạo lấy đất Trung hoa của Thiên tử đổi cho vua mảnh đất con con từ đấy Thiên tử tự xuống hạng xưng là Đông Châu quân , nhà Châu chấm dứt .
* Triều lang Sói nhà Tần
Tần đuổi vua đi tạo ra 1 Thiên hạ thống nhất hùng cường nhưng người dân phải trả cái giá cực đắt .Sự tàn bạo của vua Tần và thống khổ của con người còn đọng lại trong ngôn ngữ 2000 năm sau :
Việt ngữ có rất nhiều từ ghép với từ tàn biến âm của Tần để lột tả tâm địa vua nhà Tần như : tàn bạo , tàn ác , tàn nhẫn , tàn độc .v.v. phải chăng chính vì như thế mà Tần thủy hoàng bị người Việt gọi là ‘lang Sói ?’.
Chính tàn dư trong ngôn ngữ đã khẳng định Giao chỉ cũng bị gộp chung trong Thiên hạ chịu sự cai trị tàn bạo của vua quan nhà Tần .
* Triều lang Bang đại Hưng sử Tàu gọi là nhà Tây Hán
Nhà Tần chấm dứt Thiên hạ rơi vào cảnh chiến trận ác liệt sử Tàu gọi là Hán – Sở tranh hùng chẳng nghĩa ngọn gì cả , sau chiến trận ông lang Bang cũng là lang Ba lên ngôi lập ra triều đại mới , giới viết sử Tàu dựa vào từ Hán trong cặp Hán – Sở gọi triều đại của ông lang Ba lang Bang là Hán và để phân biệt với các triều Hán khác họ gọi là Tây Hán hay Tiền Hán .
Sau khi lang Bang mất thực quyền rơi vào tay vợ ông là Lữ hậu , triều đình bắt đầu cuộc chiến tranh dành địa vị mới không kém phần quyết liệt giữa 1 bên là đám công thần thân cận với ông lang Bang và 1 bên là đám con cháu mới được Lã hậu phong vương phong tướng , Lã Hậu mất Thiên hạ lại chia đôi , đám công thần phò con cháu lang Bang làm chủ phía Bắc (nay) còn nhà họ Lữ sử gọi là Lữ Gia cũng phò con cháu lang Bang làm chủ phía Nam , để dễ bề tráo đổi lịch sử giới viết sử người Hán sập lờ đổi Nam triều thành nước Nam Việt .
Hiếu vũ đế của Bắc triều đã đánh bại Lữ Gia diệt Nam triều tái thống nhất Thiên hạ .
* Triều đế Vãn nhà Tân
Sau triều đại của lang Bang là triều Tân của Vương Mãng -Châu hoàng đế , thực ra chẳng có ông vua nào tên là Vương Mãng hay Vương Mãn cả , theo phép phiên thiết thì vương mãn thiết vãn , vãn nghĩa là chấm hết .như nói vãn tuồng tức tấn tuồng kết thúc .
Vương Mãn là ông vua mơ mộng và duy ý chí , ông muốn thiết lập 1 xã hội công bằng tuyệt hảo giữa trần gian . đắc biệt là ông nhà Tân này phân biệt rạch ròi giữa con cháu Tam hoàng Ngũ đế và đám rợ nhập cư . Ông lang Bang 1 là đã phần nào nhờ binh lực của rợ mà dánh thắng Hạng vũ nên trả ơn , 2 là buộc phải kết thân gả công chúa và phong vương cho 1 số chúa rợ hòng tránh bị đánh phá mãi . Sang thời sau tư liệu chép Vương Mãng hạ tất cả tước vương của những chúa rợ xuống tước Hầu và cấm họ Lưu làm quan , cùng với hành động hạ tước vương của các chúa Rợ , cấm họ Lưu làm quan chắc chắn Lưu cũng là họ người ta đặt ra để gọi đám rợ chưa biết họ với hàng là gì . Xét theo Dịch học thì phía Bắc ngày nay là phương màu Đen mờ tối , họ Lưu thực ra chỉ là chữ kí âm sai từ Lu như trong lu mờ ngược với sáng tỏ , lu là từ dùng chỉ vùng Bắc Trung quốc ngày xưa là đất của rợ Hồ nói chung .
Thiên tai hợp với nhân tai do mệnh lệnh của ông vua duy ý chí …thiên đàng hóa ra địa ngục trần gian , chớp thời cơ các quan chức qúi tộc họ Lưu trước sẵn tức giận vì bi lột lon đã tập hợp đám ̣đàn em đầu trộm đuôi cướp nổi loạn cướp bóc sử gọi là Lục lâm thảo khấu , dịch thảo khấu là giặc cỏ thì không sảt nghĩa lắm , ngọn cỏ thấp lè tè dưới đất nên phải gọi là bọn ‘trộm cướp đê tiện’ hoặc cũng có thể thảo khấu là bọn cướp trộm còn đang trong thời du mục lang thang trên thảo nguyên.
Lục lâm tấn công kinh đô nhà Tân , vua Vãn bị chém đầu khi đang ngồi đọc kinh trên ngai vàng .
Lịch sử các triều của vương quốc Thiên hạ được ghi lại khá lí thú : khởi đầu từ đế Khởi- Khải và chấm dứt thời đế Vãn . Hùng phả gọi triều Tân là đời Hùng Duệ vương ; duệ nghĩa là kéo dài thêm ra tức coi triều Vương Mãng chỉ là sự kéo dài thêm của triều đại do ông Lí Bôn – Lưu Bang kiến lập . Hữu Hùng quốc nước của người họ Hùng diệt vong , Thiên hạ chìm đắm dưới móng ngựa của rơ từ đây.
Thiên hạ rã rời bọn trộm cướp đê tiện đắc thời giết đễ Vãn rồi hop nhau tôn tướng cướp Lục lâm Lu Mờ lên ngôi Hãn tức chúa rợ , sách sử gọi là triều Tây hay Tiền hãn quốc, Hãn Lu Mờ bị quân Xích Mi giết , tướng cướp Lục lâm Lu Tối tiếp nối lên ngôi ở phía Đông tư liệu lịch sử gọi là triều Đông hay triều Hậu Hãn quốc .
Từ Hãn phương Tây kí âm là Khan nghĩa là chúa , nước của Hãn gọi là hãn quốc , quân của hãn gọi là hãn quân về sau đám viết sử rợ đổi hãn danh từ chung thành Hán tên riêng , hãn quốc tương đương với vương quốc được đổi thành nước có quốc hiệu là Hán nên kể từ đấy thế gian bỗng nhiên có giống người gọi lả Hán tộc , Lục lâm thảo khấu trộm cướp đê tiện bỗng trở thành Hán quân , lớp sơn bóng được phủ lên giai đoạn lịch sử này …hô biến : ;hãn Lu Mờ đổi thành Lưu Huyền Hán canh thủy đế ,hãn Lu tối – Lu Túi thành Lưu Tú Hán Quang vũ đế …tự hào thay cho đất nước có tới 2 hoàng đế xuất thân là tướng cướp .phải chăng chính vì việc 2 ông vua tướng cướp họ Lưu này được gán vào làm con cháu ‘8 đời’ của Lí Bôn (Hán sử sửa thành Lưu Bang) mà dân gian Việt có câu ….mập mờ đánh lận con đen , con Đen ở đây chính là ông Mờ - ông Tối … thật đúng là 1 phường ‘lưu manh’ .
* Đế Khởi nhà Hạ
Đế Khải – Khởi kiến lập triều đại Hạ là triều tiên khởi của vương quốc Thiên hạ , triều đại Hạ mất ngôi vào đời vua thứ 17 là Lí Qúi sử thường gọi là Hạ Kiệt vì vô đạo .
* Triều lang Thang nhà Thương và Thương Ân
Sau nhà Hạ là nhà Thương do vua Thương Thang kiến lập , dòng sử dân gian Việt gọi là lang Thang , lang là thủ lãnh Thang là vua Thành Thang .[size=18]vì nhà Thương cho tới đế Bàn Canh đã có tới 5 lần dời đô , việc rày đây mai đó đã đọng lại trong Việt ngữ thành từ kép lang Thang.[/size]
Triều đại Thương chấm dứt với vua Thọ Tân thường gọi là Trụ cũng do …vô đạo , rất có thể Trụ không phải là tên riêng mà trụ chỉ là biến âm của chủ chỉ vua trong tiếng Việt (vua cũng là bộ chủ) .
* Triều lang Văn và lang Ninh nhà Châu
Nhà Châu có nét riêng rất đặc sắc trong lịch sử Thiên hạ …lập quốc trước lập triều sau .
Ông Cơ Xương làm chức Tây bá hầu dưới triều Thương đã lần lượt từ đất được ban có vạn gia hay vạn hộ tự tiện mở rộng vùng đất mình làm chủ , trước tiên chiếm nước Mật Tu sau đánh bại Bắc bá Hầu và thâu tóm sảp nhập đất phía Bắc (xưa ngược với nay )Thiên hạ thành lập nước riêng Sử thuyết Hùng Việt cho chính là nước Âu – Lạc trong sử Việt , Lạc là đất của Bắc bá Sùng hầu Hổ nay là phần phía Bắc Việt Nam và Nam Quảng Tây , Âu là đất của người Ai lao Di (ai lao thiết âu) ở Tây Nam (nay) Trung quốc .
Dân gian gọi ông Cơ Xương là Lăng Xương tức lang Xương , ông còn có tên khác là lang Liêu như trong tích bánh Dày – bánh Chưng , Liêu là kí âm sai chữ Li – Lửa chỉ sắc dân vốn gốc ở cận Xích đạo nóng bức . Đặc biệt với người Việt Cơ Xương còn được gọi bằng 1 tên không thể nào quên là Văn lang , lang đồng nghĩa với vương , Văn lang chính là Văn vương , kế ngôi Cơ xương làm vua Âu lạc là Ninh vương Cơ Phát , sau Cơ phát diệt Thương Ân tức đời Thương II lên ngôi Thiên tử của Thiên hạ đã truy phong cha là Văn vương coi như vương tổ triều đại Châu , Âu Lạc cũng là nước Văn lang hay lang Văn theo nghĩa nước của vua Văn trở thành Trung – Hoa ( vùng trung tâm và văn minh) của Thiên hạ .
Cơ Phát tư liệu Việt chép thành Phán là vua thữ 2 nước Văn lang – Âu Lạc ̣ nhưng lại là Thiên tử đời đầu của nhà Châu (không tính vua cha là thời kiến lập) , ông Cơ Phát tước hiệu cũ là Ninh vương , sử liệu Việt gọi là Ninh lang cũng là Linh lang (do lẫn lộn âm N và L) , sau lang Linh – Ninh lên ngôi thiên tử sử gọi là Châu Vũ vương .
Nửa sau thời nhà Châu Thiên hạ đại loạn , bên cạnh Vương đạo xuất hiện Bá đạo , Vua trở thành bù nhìn giữ Cửu đỉnh tượng trưng cho Thiên hạ truyền từ thời Đại Vũ còn Chư hầu mạnh được yếu thua mặc sức cắn xé nuốt chửng nhau cuối cùng tất cả rơi vào tay Tần , Tần vô đạo lấy đất Trung hoa của Thiên tử đổi cho vua mảnh đất con con từ đấy Thiên tử tự xuống hạng xưng là Đông Châu quân , nhà Châu chấm dứt .
* Triều lang Sói nhà Tần
Tần đuổi vua đi tạo ra 1 Thiên hạ thống nhất hùng cường nhưng người dân phải trả cái giá cực đắt .Sự tàn bạo của vua Tần và thống khổ của con người còn đọng lại trong ngôn ngữ 2000 năm sau :
Việt ngữ có rất nhiều từ ghép với từ tàn biến âm của Tần để lột tả tâm địa vua nhà Tần như : tàn bạo , tàn ác , tàn nhẫn , tàn độc .v.v. phải chăng chính vì như thế mà Tần thủy hoàng bị người Việt gọi là ‘lang Sói ?’.
Chính tàn dư trong ngôn ngữ đã khẳng định Giao chỉ cũng bị gộp chung trong Thiên hạ chịu sự cai trị tàn bạo của vua quan nhà Tần .
* Triều lang Bang đại Hưng sử Tàu gọi là nhà Tây Hán
Nhà Tần chấm dứt Thiên hạ rơi vào cảnh chiến trận ác liệt sử Tàu gọi là Hán – Sở tranh hùng chẳng nghĩa ngọn gì cả , sau chiến trận ông lang Bang cũng là lang Ba lên ngôi lập ra triều đại mới , giới viết sử Tàu dựa vào từ Hán trong cặp Hán – Sở gọi triều đại của ông lang Ba lang Bang là Hán và để phân biệt với các triều Hán khác họ gọi là Tây Hán hay Tiền Hán .
Sau khi lang Bang mất thực quyền rơi vào tay vợ ông là Lữ hậu , triều đình bắt đầu cuộc chiến tranh dành địa vị mới không kém phần quyết liệt giữa 1 bên là đám công thần thân cận với ông lang Bang và 1 bên là đám con cháu mới được Lã hậu phong vương phong tướng , Lã Hậu mất Thiên hạ lại chia đôi , đám công thần phò con cháu lang Bang làm chủ phía Bắc (nay) còn nhà họ Lữ sử gọi là Lữ Gia cũng phò con cháu lang Bang làm chủ phía Nam , để dễ bề tráo đổi lịch sử giới viết sử người Hán sập lờ đổi Nam triều thành nước Nam Việt .
Hiếu vũ đế của Bắc triều đã đánh bại Lữ Gia diệt Nam triều tái thống nhất Thiên hạ .
* Triều đế Vãn nhà Tân
Sau triều đại của lang Bang là triều Tân của Vương Mãng -Châu hoàng đế , thực ra chẳng có ông vua nào tên là Vương Mãng hay Vương Mãn cả , theo phép phiên thiết thì vương mãn thiết vãn , vãn nghĩa là chấm hết .như nói vãn tuồng tức tấn tuồng kết thúc .
Vương Mãn là ông vua mơ mộng và duy ý chí , ông muốn thiết lập 1 xã hội công bằng tuyệt hảo giữa trần gian . đắc biệt là ông nhà Tân này phân biệt rạch ròi giữa con cháu Tam hoàng Ngũ đế và đám rợ nhập cư . Ông lang Bang 1 là đã phần nào nhờ binh lực của rợ mà dánh thắng Hạng vũ nên trả ơn , 2 là buộc phải kết thân gả công chúa và phong vương cho 1 số chúa rợ hòng tránh bị đánh phá mãi . Sang thời sau tư liệu chép Vương Mãng hạ tất cả tước vương của những chúa rợ xuống tước Hầu và cấm họ Lưu làm quan , cùng với hành động hạ tước vương của các chúa Rợ , cấm họ Lưu làm quan chắc chắn Lưu cũng là họ người ta đặt ra để gọi đám rợ chưa biết họ với hàng là gì . Xét theo Dịch học thì phía Bắc ngày nay là phương màu Đen mờ tối , họ Lưu thực ra chỉ là chữ kí âm sai từ Lu như trong lu mờ ngược với sáng tỏ , lu là từ dùng chỉ vùng Bắc Trung quốc ngày xưa là đất của rợ Hồ nói chung .
Thiên tai hợp với nhân tai do mệnh lệnh của ông vua duy ý chí …thiên đàng hóa ra địa ngục trần gian , chớp thời cơ các quan chức qúi tộc họ Lưu trước sẵn tức giận vì bi lột lon đã tập hợp đám ̣đàn em đầu trộm đuôi cướp nổi loạn cướp bóc sử gọi là Lục lâm thảo khấu , dịch thảo khấu là giặc cỏ thì không sảt nghĩa lắm , ngọn cỏ thấp lè tè dưới đất nên phải gọi là bọn ‘trộm cướp đê tiện’ hoặc cũng có thể thảo khấu là bọn cướp trộm còn đang trong thời du mục lang thang trên thảo nguyên.
Lục lâm tấn công kinh đô nhà Tân , vua Vãn bị chém đầu khi đang ngồi đọc kinh trên ngai vàng .
Lịch sử các triều của vương quốc Thiên hạ được ghi lại khá lí thú : khởi đầu từ đế Khởi- Khải và chấm dứt thời đế Vãn . Hùng phả gọi triều Tân là đời Hùng Duệ vương ; duệ nghĩa là kéo dài thêm ra tức coi triều Vương Mãng chỉ là sự kéo dài thêm của triều đại do ông Lí Bôn – Lưu Bang kiến lập . Hữu Hùng quốc nước của người họ Hùng diệt vong , Thiên hạ chìm đắm dưới móng ngựa của rơ từ đây.
Thiên hạ rã rời bọn trộm cướp đê tiện đắc thời giết đễ Vãn rồi hop nhau tôn tướng cướp Lục lâm Lu Mờ lên ngôi Hãn tức chúa rợ , sách sử gọi là triều Tây hay Tiền hãn quốc, Hãn Lu Mờ bị quân Xích Mi giết , tướng cướp Lục lâm Lu Tối tiếp nối lên ngôi ở phía Đông tư liệu lịch sử gọi là triều Đông hay triều Hậu Hãn quốc .
Từ Hãn phương Tây kí âm là Khan nghĩa là chúa , nước của Hãn gọi là hãn quốc , quân của hãn gọi là hãn quân về sau đám viết sử rợ đổi hãn danh từ chung thành Hán tên riêng , hãn quốc tương đương với vương quốc được đổi thành nước có quốc hiệu là Hán nên kể từ đấy thế gian bỗng nhiên có giống người gọi lả Hán tộc , Lục lâm thảo khấu trộm cướp đê tiện bỗng trở thành Hán quân , lớp sơn bóng được phủ lên giai đoạn lịch sử này …hô biến : ;hãn Lu Mờ đổi thành Lưu Huyền Hán canh thủy đế ,hãn Lu tối – Lu Túi thành Lưu Tú Hán Quang vũ đế …tự hào thay cho đất nước có tới 2 hoàng đế xuất thân là tướng cướp .phải chăng chính vì việc 2 ông vua tướng cướp họ Lưu này được gán vào làm con cháu ‘8 đời’ của Lí Bôn (Hán sử sửa thành Lưu Bang) mà dân gian Việt có câu ….mập mờ đánh lận con đen , con Đen ở đây chính là ông Mờ - ông Tối … thật đúng là 1 phường ‘lưu manh’ .