Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Gallery


Bà Giàng và Tứ Pháp Empty

September 2024

MonTueWedThuFriSatSun
      1
2345678
9101112131415
16171819202122
23242526272829
30      

Calendar Calendar

Khách thăm



Bà Giàng và Tứ Pháp Flags_1



    Bà Giàng và Tứ Pháp

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1195
    Join date : 31/01/2008

    Bà Giàng và Tứ Pháp Empty Bà Giàng và Tứ Pháp

    Bài gửi by Admin 14/5/2019, 8:06 am

    Bách Việt trùng cửu – nguồn https://bahviet18.com/2019/05/13/ba-giang-va-tu-phap/

    Ở miền Trung, có một vị thần được thờ rất phổ biến, dọc ven biển từ Quảng Trị, Thừa Thiên Huế đến Quảng Nam Đà Nẵng, nơi nào cũng có thờ. Vị thần có cái tên khá dân gian: Bà Giàng. Bà Giàng là ai mà lại được thờ phổ biến như vậy ở đây? Để nhận diện vị thần này, thử điểm qua các di tích thờ Bà Giàng ở vùng ven biển Trung Bộ.

    Bà Giàng và Tứ Pháp Img_3345

    Miếu Bà Giàng – Thai Dương phu nhân ở Thuận An.

    Một ngôi miếu cổ nổi tiếng ở cửa biển Thuận An (Huế) gắn với sự tích Thai Dương phu nhân. Sự tích này đã được ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí và vị thần Thai Dương phu nhân ở đây đã được triều đình nhà Nguyễn nhiều lần sắc phong. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân được kể nói chung như sau:
    Có một ngư phủ ra làm nghề biển, nằm gối đầu lên khối đá mà ngủ. Ông nằm mộng thấy người đàn bà mang thai lay đầu mình dạy bảo rằng: “Chớ chạm vào thai ta”. Ngư phủ tỉnh dậy không thấy ai khấn rằng: “Thần có thiêng xin đêm nay phù hộ cho ta bắt được nhiều cá”. Quả nhiên, hôm đó ông đạt được ý nguyện như lời cầu xin. Dân chài trong địa phương cùng nhau lập đền thờ. Mỗi lần họ cầu xin điều gì đều được như ý.


    Bà Giàng và Tứ Pháp Img_3332

    Đá thờ trong nội điện miếu Bà Giàng – Thai Dương phu nhân ở Thuận An.

    Tục thờ Thai Dương phu nhân gắn liền với tục thờ đá cổ. Miếu Thai Dương phu nhân ở cửa Thuận An còn được gọi là miếu Bà Giàng. Dễ nhận thấy âm Giàng đã được ghi trong sách vở bằng chữ Dương. Còn chữ được dịch ra thành “phu nhân”.
    Câu đối ở miếu Thai Dương phu nhân:
    跋跅化生帖海澄波彰聖澤
    邰陽顯現騰雲駕雨妙神機
    Bạt thác hóa sinh, thiếp hải trừng ba chương thánh trạch
    Thai dương hiển hiện, đằng vân giá vũ diệu thần cơ.
    Dịch:
    Dấu mạnh hóa sinh, biển lặng sóng yên ngời đức thánh
    Thai trời hiển hiện, đi mây về gió khéo cơ thần.
    Ở các nơi khác, Bà Giàng được ghi trong sắc phong là Dương phu nhân. Ví dụ như sắc phong của xã Thi Ông ở Hải Lăng, Quảng Trị. Điều này củng cố thêm nhận định Bà Giàng = Dương phu nhân.


    Bà Giàng và Tứ Pháp Sac-duong-phu-nhan

    Sắc phong thời Tự Đức cho Dương phu nhân trung đẳng thần ở xã Thi Ông, Hải Lăng, Quảng Trị.

    Ở thôn Thanh Phước xã Hương Phong, Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế cũng có một viên đá được vua phong là “phu nhân”. Đó là “Kỳ Thạch phu nhân”, là một tấm đá có khắc chạm tượng. Đây là tấm phù điêu của một tháp Chăm cổ được người dân tìm thấy trên bãi cồn. Tấm đá chạm hình quỷ vương Ravanda mười đầu, mười tám tay, bốn chân đang lay chuyển ngọn núi của thần Shiva trong Hindu giáo. Làng Thanh Phước gọi tấm chạm này là “Bà Đá”, cho dù hình khắc không thể hiện nhân vật nữ nào. Sắc phong cho Kỳ Thạch phu nhân ở làng Thanh Phước có từ thời Minh Mạng.

    Bà Giàng và Tứ Pháp Img_3468
    Am Bà Đá – Kỳ Thạch phu nhân ở Thanh Phước.


    Từ 2 vị “phu nhân” Bà Giàng và Bà Đá trên, ta thấy chữ Bà ở đây không phải chỉ nữ giới mà nó liên quan đến các vị thần Hindu giáo của của người Chăm xưa để lại qua các phiến đá cổ. Bản thân tên gọi Chămpa được ghi là Chiêm Bà. Chữ Bà do đó là từ chỉ thủ lĩnh trong ngôn ngữ cổ. Chiêm Bà nghĩa là Vua Chiêm, nước của vua Chiêm.
    Bà Giàng như ở miếu Bà Chiêm Sơn (Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam) còn gọi là Bô Bô. Như thế Bà là biến âm của Bô, hay Bố, vốn là từ chỉ Vua ngày trước, tương tự như trong danh xưng Bố cái đại vương.
    Ở thôn Lương Hậu (Thủy Lương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế) có ngôi miếu Bà Giàng hay Lùm Giàng. Trên miếu ghi chữ “Bố Y Na miếu”. Căn cứ vào chữ này mà người ta cho rằng đó là nữ thần Thiên Y A Na, phiên âm từ tên Poh Nagar ra. Tuy nhiên, đúng với tên gọi vị thần ở đây là Bà Giàng thì phải phiên âm như sau:



    • Bố = Bà

    • Y Na = Yang = Giàng.



    Bố Y Na là cách ghi âm Hán Việt khác của từ Bà Giàng. Miếu ở Lương Hậu còn có bức tượng thần Shiva nhiều tay trong điệu múa vũ trụ, cho thấy liên hệ trực tiếp giữa cái tên Bà Giàng với tín ngưỡng của Hindu giáo (người Chăm).
    Từ Giàng (Yang) trong tiếng dân tộc nghĩa là Trời. Từ phát hiện trên ta lại có, Bà là từ chỉ thủ lĩnh trong ngôn ngữ Chăm. Như thế Bà Giàng nghĩa là Vua Trời. Ghi bằng âm Hán Việt ở miền Bắc là Thiên Đế (Đế Thích). Vua Trời trong văn hóa Chăm là thần Shiva.
    Ở chùa Đông Lâm tại thôn Cù Hoan (Hải Thiện, Hải Lăng, Quảng Trị) có miếu Bà Giàng bên trong thờ một mukhalinga là hình một Linga tròn được gắn với đầu của thần Shiva. Hình thần Shiva còn thấy cả râu mép, rất rõ ràng không phải là nữ thần.


    Bà Giàng và Tứ Pháp Mukhalinga
    Tượng Bà Giàng – mukhalinga chùa Đông Lâm (ảnh theo Internet).


    Rất nhiều những điểm thờ cúng khác liên quan đến chữ Bà đều có tượng đá Chăm thể hiện các vị thần của Hindu giáo. Tại chùa Ưu Điềm (Phong Điền, Thừa Thiên Huế) có miếu Bà Lồi, trong đó lưu giữ một bức phù điêu có khắc hình thần Shiva và vợ đang cưỡi trên con bò thần Nandin. Trong miếu còn các hiện vật khác của một ngôi đền Chăm cổ, có cả một Linga tròn và mảnh vỡ của tượng Yoni. Chữ Bà như vậy chỉ các vị thần trong Hindu giáo, nay được gọi là các Chư Thiên.

    Bà Giàng và Tứ Pháp Img_3531

    Phù điêu và Linga cùng các hiện vật đá ở miếu Bà Lồi, chùa Ưu Điềm.

    Các “Bà” hay Chư Thiên Hindu giáo thường gắn với truyền thuyết về “thai sinh”, sinh ra từ thân cây hay trong một tảng đá. Ví dụ như trường hợp Thai Dương phu nhân ở Thuận An đã nói ở trên. Có thể cái “Thai” này là tượng trưng của Linga, biểu tượng của thần Shiva.
    Từ nhận định chữ Bà là chỉ các vị thần của Hindu giáo ở miền Trung còn đi đến một phát hiện bất ngờ khác. Bốn vị thần Tứ Pháp – Phong Vũ Lôi Điện ở vùng Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) có tên dân gian là Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Tướng, Bà Dàn. Những chữ “Bà” này làm cho người ta nghĩ rằng đây là 4 vị nữ thần…


    Bà Giàng và Tứ Pháp P1150366
    Ban Pháp Vũ ở chùa Dâu.


    Thực ra chữ Bà này không phải là từ chỉ phụ nữ. Đây là từ có nguồn gốc trong “tiếng Chăm”, ví dụ như các nơi Bà Đanh, Bà Đá,… thường được cho là du nhập văn hóa Chăm. Như đã dẫn chứng ở trên Bà tương đương với vua hay vương. 4 vị “Bà” làm Mây Mưa Sấm Chớp ở vùng Luy Lâu dó đó là 4 vị vương thần, hay gọi chính xác là Tứ đại Thiên vương. Đây là 4 vị thần của Hindu giáo mà đã được tiểu thuyết Phong Thần diễn nghĩa gọi là Phong Điều Vũ Thuận, liên quan đến việc làm mưa làm gió.

    Bà Giàng và Tứ Pháp P1150368

    Ban thờ Pháp Vân ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh.

    Cốt lõi của cây Dung thụ nơi sinh Tứ pháp là Thạch Quang Phật, tức là cái “Thai” đá, hay Linga, biểu tượng của thần Shiva. Tứ đại Thiên vương cũng là những vị thần theo hộ giúp thần Shiva.
    Tục thờ Tứ pháp do đó thực chất là thờ các vị thần Hindu giáo, đã du nhập vào miền Bắc từ rất sớm ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên. Khi đó, dưới sự cai quản của Sĩ Nhiếp miền Bắc và miền Trung Việt đang cùng trong 1 châu. Giao Châu thời này bao gồm cả các quận Nhật Nam, Cửu Chân, mà Nhật Nam chính là nơi bố của Sĩ Nhiếp là Sĩ Tứ làm thái thú. Do đó, hoàn toàn hợp lý khi tín ngưỡng của miền Bắc và miền Trung Việt lúc này cùng là một, thờ các vị Thiên Đế và Chư Thiên của đạo Bà La Môn.

      Hôm nay: 21/9/2024, 6:55 pm