Lạc Việt nghĩa là Nước Viêt (2)
Lãn Miên , nguồn http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn
Sông Cơ ở đâu? Thuyết Văn hướng dẫn đọc chữ Cơ 姬 bằng lướt Cư 居 Chi 之, giải thích đó là nơi sinh Hoàng Đế nên Hoàng Đế lấy họ là Cơ 姬. Nhưng Đế là Nước, Nước Văn Lang thì lướt “Văn Lang” = Vàng, mà màu Vàng = Hoàng 黄,皇 , nên Đế 帝 Hoàng皇 = Nước Văn Lang. Màu Vàng=Hoàng 黄 là màu ở Trong Cung = Trung 中 Cung 宫 tức ở Giữa, mà Giữa=Giao, Giữa Chỗ = Giao 交Chỉ 址 (chữ Giao 交 thì Thuyết Văn giải thích nó là một sự viết lệch đi của chữ Vuông 口, cũng giống như trường hợp chữ Văn 文)
Chữ Chi 之 có ba cách đọc: là 之 Chi như câu “Phải Chi 之 anh bán giá đó thì đẩy đi được rồi”, là 之 Chứ như câu “Cái giá đó là phải rồi Chứ 之”, là 之 Chớ như câu “Thì cũng là giá vừa phải Chớ 之 sao nữa”. Chữ Cơ 姬 theo Thuyết Văn mà lướt thì “Cư 居 Chớ 之” =Cơ 姬
Sông Cơ 姬 với sông Khương 姜, nó là hai con sông hay một con sông ? nó nằm ở đâu mà trong cổ thư như 《Thượng Thư》 hay 《Thủy Kinh Chú》 có viết, mà đến nay các học giả TQ vẫn chỉ là đoán, vì nó chẳng có trên bản đồ TQ từ cổ đến nay, mà sông Cơ 姬 lại là “nơi sinh ra Hoàng Đế”. Quách Mạt Nhược thì cho rằng Cơ Thủy 姬 水có thể là ở huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam (tức vùng Trung Nguyên), thuyết khác lại cho rằng Khương Thủy 姜 水có thể là ở Thiểm Tây. Tất cả các thuyết đoán đều vẫn chỉ là mơ hồ, và đến tận năm nay cư dân mạng tiếng Hoa vẫn đang hỏi mà chưa có câu trả lời xác đáng. Căn cứ vào chữ Cơ 姬 thì nghĩa đen của nó là “Nữ Thần Xứ Nóng”, tức “Nữ Thần Mặt Trời” như thấy thờ Mặt Trời trên trống đồng Lạc Việt (cùng với tục thờ Mẫu là Mẹ Âu, do lướt “Mẹ Âu” = Mẫu, Mẹ Ở sông Cái gọi là Mẹ Âu Cơ, Ở=Âu, Cái=Cơ ). Chữ Cơ 姬 đọc từ trái sang phải là Nữ 女 Thần 臣, mà lướt “Nữ 女 Thần 臣” = Nần, Nần=Nôm=Nam=Nặm=Nước (Nam tiếng Thái Lan, Nặm tiếng Lào, đều có nghĩa là Nước; tiếng Việt thì "Nợ Nần" có chung nôi khái niệm với "Nợ Nước", chỉ khác sắc thái là Nợ Nần thì lo mà trả cho xong trong đời, còn Nợ Nước thì phải trả bằng mạng của mình). Vậy Sông Cơ 姬( tương truyền là “nơi sinh ra Hoàng Đế” ) nó là Sông Cơ = Sông Cả = Sông Cái = Sông Mẹ, cũng gọi theo từ đôi, nó vừa là Mẹ vừa là Sông, là Mẹ Sông = =Mê Kông = Mè Khoỏng (Khoỏng tiếng Lào, lại là từ nguyên của Khương 姜, vậy Sông Cơ 姬 水 với Sông Khương 姜 水là một, là loại Sông Cái).
Chữ Cơ 姬 nếu đọc từ phải sang trái thì là Thần 臣 Nữ 女, mà lướt thì “Thần 臣 Nữ 女” = Thử 署, có nghĩa là nóng (mùa hè có ngày nóng nhất là Đại Thử 大 暑). Như vậy sông Cơ 姬 là ở xứ nóng, xứ nóng ấy là xứ Việt chứ không phải xứ Hán mà có thể nằm ở Thiểm Tây. Chữ Lạc 洛 nếu đọc từ phải sang trái cũng còn đọc là “Các 各 Thủy氵”= Qủi 鬼, điều đó có nghĩa: Lạc 洛 cũng là tên nước Xích Qủi 赤 鬼 國. Bản thân chữ Xích 赤 cũng nghĩa là nóng, cũng có nghĩa là màu đỏ, màu ngũ hành của phương Nam, mà nóng tức là viêm nhiệt ( Viêm = Chiêm = Xiêm = Xích, lại là nôi khái niệm chỉ vị trí lãnh thổ). Cái khái niệm “nóng” là: NÔI = Nắng = Nóng = Bỏng = Róng-Rát = Róng-Riết = Liệt 烈 = Nhiệt 熱 = Nhực 日 = Rực = Bức = Thức = Thự 曙 =Thử 署 (từ Thức và Thự 曙 là chỉ lúc mặt trời ló ra ấm áp, còn gọi là bình minh). Người Lạc Việt canh tác nông nghiệp lúa nước, nên định cư ở đâu thì con sông lớn ở vùng đó đều được gọi ngay là Sông Cả = Sông Cái, rồi sau mới đặt tên chữ cho nó, như sông Cả có chữ là sông Lam, sông Cái có chữ là sông Hồng, Chúa Dòng có chữ là Châu Giang 珠 江, Dòng Cả có chữ là Dương Tử 楊 子. Như vậy Sông Cơ cổ đại là có nhiều Sông Cơ, nhưng tất cả những con Sông Cơ ấy đều ở xứ nóng, đều là trên đất Văn Lang Lạc Việt. Quốc gia Văn Lang ấy như sử thư ghi: Bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn. Cái nước Hồ Tôn này cũng không ai biết ở đâu trên bản đồ, chỉ có thể căn cứ từ nguyên mà xác định nó là tận cùng của Đông Nam Á lục địa: Hồ là cái đựng nước, từ trong NÔI khái niệm là Ổ = Hố = Hồ = Hái 海 =Bái沛 = =Bái 霈 = Biển, biển đây là biển phương nam, nơi có nhiều mưa (chữ nho cổ: Bái 沛 là “đầy tràn trề”, mà Đầy = Đức = Tức = =Té = Tế = Đế, nghĩa là nước; Bái 霈 là “nhiều mưa” vì cũng là âm tiết “bái” thêm vào bộ mây 雲 trên đầu để chữ Bái 霈này mang nghĩa là mưa nhiều). Tốn = Tôn = Nồm = Nam ( quẻ tốn còn được tượng trưng là gió, xứ này có mùa Gió Nồm). Hồ Tôn nghĩa đen là biển ở tận cùng của ĐNÁ lục địa, vẫn là vùng của dân lúa nước, nhuộm răng đen và có trống đồng.
Lãn Miên , nguồn http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn
Sông Cơ ở đâu? Thuyết Văn hướng dẫn đọc chữ Cơ 姬 bằng lướt Cư 居 Chi 之, giải thích đó là nơi sinh Hoàng Đế nên Hoàng Đế lấy họ là Cơ 姬. Nhưng Đế là Nước, Nước Văn Lang thì lướt “Văn Lang” = Vàng, mà màu Vàng = Hoàng 黄,皇 , nên Đế 帝 Hoàng皇 = Nước Văn Lang. Màu Vàng=Hoàng 黄 là màu ở Trong Cung = Trung 中 Cung 宫 tức ở Giữa, mà Giữa=Giao, Giữa Chỗ = Giao 交Chỉ 址 (chữ Giao 交 thì Thuyết Văn giải thích nó là một sự viết lệch đi của chữ Vuông 口, cũng giống như trường hợp chữ Văn 文)
Chữ Chi 之 có ba cách đọc: là 之 Chi như câu “Phải Chi 之 anh bán giá đó thì đẩy đi được rồi”, là 之 Chứ như câu “Cái giá đó là phải rồi Chứ 之”, là 之 Chớ như câu “Thì cũng là giá vừa phải Chớ 之 sao nữa”. Chữ Cơ 姬 theo Thuyết Văn mà lướt thì “Cư 居 Chớ 之” =Cơ 姬
Sông Cơ 姬 với sông Khương 姜, nó là hai con sông hay một con sông ? nó nằm ở đâu mà trong cổ thư như 《Thượng Thư》 hay 《Thủy Kinh Chú》 có viết, mà đến nay các học giả TQ vẫn chỉ là đoán, vì nó chẳng có trên bản đồ TQ từ cổ đến nay, mà sông Cơ 姬 lại là “nơi sinh ra Hoàng Đế”. Quách Mạt Nhược thì cho rằng Cơ Thủy 姬 水có thể là ở huyện Tân Trịnh tỉnh Hà Nam (tức vùng Trung Nguyên), thuyết khác lại cho rằng Khương Thủy 姜 水có thể là ở Thiểm Tây. Tất cả các thuyết đoán đều vẫn chỉ là mơ hồ, và đến tận năm nay cư dân mạng tiếng Hoa vẫn đang hỏi mà chưa có câu trả lời xác đáng. Căn cứ vào chữ Cơ 姬 thì nghĩa đen của nó là “Nữ Thần Xứ Nóng”, tức “Nữ Thần Mặt Trời” như thấy thờ Mặt Trời trên trống đồng Lạc Việt (cùng với tục thờ Mẫu là Mẹ Âu, do lướt “Mẹ Âu” = Mẫu, Mẹ Ở sông Cái gọi là Mẹ Âu Cơ, Ở=Âu, Cái=Cơ ). Chữ Cơ 姬 đọc từ trái sang phải là Nữ 女 Thần 臣, mà lướt “Nữ 女 Thần 臣” = Nần, Nần=Nôm=Nam=Nặm=Nước (Nam tiếng Thái Lan, Nặm tiếng Lào, đều có nghĩa là Nước; tiếng Việt thì "Nợ Nần" có chung nôi khái niệm với "Nợ Nước", chỉ khác sắc thái là Nợ Nần thì lo mà trả cho xong trong đời, còn Nợ Nước thì phải trả bằng mạng của mình). Vậy Sông Cơ 姬( tương truyền là “nơi sinh ra Hoàng Đế” ) nó là Sông Cơ = Sông Cả = Sông Cái = Sông Mẹ, cũng gọi theo từ đôi, nó vừa là Mẹ vừa là Sông, là Mẹ Sông = =Mê Kông = Mè Khoỏng (Khoỏng tiếng Lào, lại là từ nguyên của Khương 姜, vậy Sông Cơ 姬 水 với Sông Khương 姜 水là một, là loại Sông Cái).
Chữ Cơ 姬 nếu đọc từ phải sang trái thì là Thần 臣 Nữ 女, mà lướt thì “Thần 臣 Nữ 女” = Thử 署, có nghĩa là nóng (mùa hè có ngày nóng nhất là Đại Thử 大 暑). Như vậy sông Cơ 姬 là ở xứ nóng, xứ nóng ấy là xứ Việt chứ không phải xứ Hán mà có thể nằm ở Thiểm Tây. Chữ Lạc 洛 nếu đọc từ phải sang trái cũng còn đọc là “Các 各 Thủy氵”= Qủi 鬼, điều đó có nghĩa: Lạc 洛 cũng là tên nước Xích Qủi 赤 鬼 國. Bản thân chữ Xích 赤 cũng nghĩa là nóng, cũng có nghĩa là màu đỏ, màu ngũ hành của phương Nam, mà nóng tức là viêm nhiệt ( Viêm = Chiêm = Xiêm = Xích, lại là nôi khái niệm chỉ vị trí lãnh thổ). Cái khái niệm “nóng” là: NÔI = Nắng = Nóng = Bỏng = Róng-Rát = Róng-Riết = Liệt 烈 = Nhiệt 熱 = Nhực 日 = Rực = Bức = Thức = Thự 曙 =Thử 署 (từ Thức và Thự 曙 là chỉ lúc mặt trời ló ra ấm áp, còn gọi là bình minh). Người Lạc Việt canh tác nông nghiệp lúa nước, nên định cư ở đâu thì con sông lớn ở vùng đó đều được gọi ngay là Sông Cả = Sông Cái, rồi sau mới đặt tên chữ cho nó, như sông Cả có chữ là sông Lam, sông Cái có chữ là sông Hồng, Chúa Dòng có chữ là Châu Giang 珠 江, Dòng Cả có chữ là Dương Tử 楊 子. Như vậy Sông Cơ cổ đại là có nhiều Sông Cơ, nhưng tất cả những con Sông Cơ ấy đều ở xứ nóng, đều là trên đất Văn Lang Lạc Việt. Quốc gia Văn Lang ấy như sử thư ghi: Bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn. Cái nước Hồ Tôn này cũng không ai biết ở đâu trên bản đồ, chỉ có thể căn cứ từ nguyên mà xác định nó là tận cùng của Đông Nam Á lục địa: Hồ là cái đựng nước, từ trong NÔI khái niệm là Ổ = Hố = Hồ = Hái 海 =Bái沛 = =Bái 霈 = Biển, biển đây là biển phương nam, nơi có nhiều mưa (chữ nho cổ: Bái 沛 là “đầy tràn trề”, mà Đầy = Đức = Tức = =Té = Tế = Đế, nghĩa là nước; Bái 霈 là “nhiều mưa” vì cũng là âm tiết “bái” thêm vào bộ mây 雲 trên đầu để chữ Bái 霈này mang nghĩa là mưa nhiều). Tốn = Tôn = Nồm = Nam ( quẻ tốn còn được tượng trưng là gió, xứ này có mùa Gió Nồm). Hồ Tôn nghĩa đen là biển ở tận cùng của ĐNÁ lục địa, vẫn là vùng của dân lúa nước, nhuộm răng đen và có trống đồng.