(Trích dịch từ Hậu Hán Thư của Phạm Việp, Tư Mã Bưu, Lưu Tống)
Người dịch: Lệnh Lỗi Dương
Nguồn http://aivietnguyen.blogspot.com/2014/10/truyen-thuyet-ve-chu-cho-ban-ho.html
Nguyên văn
卷八十六 · 南蛮西南夷列传第七十
Phiên âm: Quyển bát thập lục · nam man tây nam di liệt truyện đệ thất thập
Dịch: Quyển tám mươi sáu: Liệt truyện thứ bảy mươi Nam Man Tây Nam Di
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương:
Nam Man là chỉ các tộc Việt ở phương Nam, Tây Nam Di là chỉ các tộc ở Vân Nam
Nguyên văn
昔高辛氏有犬戎之寇, 帝患其侵暴, 而征伐不克. 乃访募天下, 有能得犬戎之将吴将军头者, 购黄金千镒, 邑万家, 又妻以少女. 时帝有畜狗, 其毛五采, 名曰槃瓠.
Phiên âm
Tích cao tân thị hữu khuyển nhung chi khấu, đế hoạn kỳ xâm bạo, nhi chinh phạt bất khắc. Nãi phỏng mộ thiên hạ, hữu năng đắc khuyển nhung chi tương ngô tương quân đầu giả, cấu hoàng kim thiên dật, ấp vạn gia, hựu thê dĩ thiểu nữ. Thời đế hữu súc cẩu, kỳ mao ngũ thái, danh viết bàn hồ.
Dịch:
Ngày trước thời họ Cao Tân có giặc Khuyển Nhung, trong lúc Đế bị bệnh bèn xâm phạm, mà chinh phạt vẫn không khắc chế được. Bèn chiêu mộ hỏi khắp thiên hạ, người có thể lấy được đầu tướng Khuyển Nhung là Ngô tướng quân, sẽ ban cho ngàn dật vàng ròng, phong ấp vạn nhà, gả con gái cho. Vừa lúc đó Đế có con chó, lông năm sắc, tên gọi Bàn Hồ.
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương:
Bàn Hồ là con chó nuôi trong nhà của Đế Cao Tân.
Nguyên văn
下令之后, 槃瓠遂衔人头造阙下, 群臣怪而诊之, 乃吴将军首也. 帝大喜, 而计槃瓠不可妻之以女, 又无封爵之道, 议欲有报而未知所宜. 女闻之, 以为帝皇下令, 不可违信, 因请行. 帝不得已, 乃以女配槃瓠. 槃瓠得女, 负而走入南山, 止石室中. 所处险绝, 人迹不至. 于是女解去衣裳, 为仆鉴之结, 着独力之衣. 帝悲思之, 遣使寻求, 辄遇风雨震晦, 使者不得进.
Phiên âm
Hạ lệnh chi hậu, bàn hồ toại hàm nhân đầu tạo khuyết hạ, quần thần quái nhi chẩn chi, nãi ngô tương quân thủ dã. Đế đại hỉ, nhi kế bàn hồ bất khả thê chi dĩ nữ, hựu vô phong tước chi đạo, nghị dục hữu báo nhi vị tri sở nghi. Nữ văn chi, dĩ vi đế hoàng hạ lệnh, bất khả vi tín, nhân thỉnh hành. Đế bất đắc dĩ, nãi dĩ nữ phối bàn hồ. Bàn hồ đắc nữ, phụ nhi tẩu nhập nam sơn, chỉ thạch thất trung. Sở xử hiểm tuyệt, nhân tích bất chí. Vu thị nữ giải khứ y thường, vi bộc giám chi kết, trứ độc lực chi y. Đế bi tư chi, khiển sứ tầm cầu, triếp ngộ phong vũ chấn hối, sứ giả bất đắc tiến.
Dịch
Sau khi lệnh ban xuống, Bàn Hồ đã tha được đầu người đến dưới cửa khuyết, quần thần kinh ngạc xem kỹ, thì chính là đầu của Ngô tướng quân. Đế rất mừng, nhưng suy tính Bàn Hồ không thể gả con gái, cũng không có cách nào phong tước, luận bàn muốn có đền đáp nhưng chưa có cách phù hợp. Cô gái nghe được, cho rằng làm vua đã ban lệnh xuống, không thể bội tín, vì thế xin được thi hành. Đế bất đắc dĩ phải đem con gái gả cho Bàn Hồ. Bàn Hồ được cô gái, cõng lên mà chạy vào Nam Sơn,
vào trong hang đá. Nơi đó hiểm trở, dấu chân người không tới. Thế rồi cô gái trút bỏ xiêm áo, phục xuống kết làm vợ chồng, chỉ mặc một cái áo đơn. Đế buồn nhớ, sai sứ đi tìm, thường gặp mưa gió mù sấm mịt mù ầm ầm, sứ giả không thể đi tiếp được.
Nguyên văn
经三年, 生子一十二人, 六男六女. 槃瓠死后, 因自相夫妻. 织绩木皮, 染以草实, 好五色衣服. 制裁皆有尾形. 其母后归, 以状白帝, 于是使迎致诸子. 衣裳班兰, 语言侏离, 好入山壑, 不乐平旷. 帝顺其意, 赐以名山广泽. 其后滋蔓, 号曰蛮夷. 外痴内黠, 安土重旧. 以先父有功, 母帝之女, 田作贾贩, 无关梁符传, 租税之赋. 有邑君长, 皆赐印绶, 冠用獭皮. 名渠帅曰精夫, 相呼为姎徒. 今长沙武陵蛮是也.
Phiên âm
Kinh tam niên, sinh tử nhất thập nhị nhân, lục nam lục nữ. Bàn hồ tử hậu, nhân tự tương phu thê. Chức tích mộc bì, nhiễm dĩ thảo thực, hảo ngũ sắc y phục. Chế tài giai hữu vĩ hình. Kỳ mẫu hậu quy, dĩ trạng bạch đế, vu thị sứ nghênh trí chư tử. Y thường ban lan, ngữ ngôn chu ly, hảo nhập sơn hác, bất nhạc bình khoáng. Đế thuận kỳ ý, tứ dĩ danh sơn quảng trạch. Kỳ hậu tư mạn, hiệu viết man di. Ngoại si nội hiệt, an thổ trọng cựu. Dĩ tiên phụ hữu công, mẫu đế chi nữ, điền tác cổ phiến, vô quan lương phù truyện, tô thuế chi phú. Hữu ấp quân trường, giai tứ ấn thụ, quan dụng thát bì. Danh cừ soái viết tinh phu, tương hô vi áng đồ. Kim trường sa vũ lăng man thị dã.
Dịch
Qua ba năm, sinh được mười hai người con, sáu nam sáu nữ. Sau khi Bàn Hồ chểt, bèn theo đó tự lấy nhau thành vợ chồng. Xe dệt vỏ cây, dùng hạt cỏ để nhuộm, thành quần áo năm sắc đẹp. Quy định đều có hình cái đuôi. Về sau người mẹ của họ trở về, kể rõ ngọn ngành cho Đế, bèn sai người đi nghênh đón các con. Áo quần loang lổ, nói năng ngộ nghĩnh, thích chui vào khe núi, không ưa bằng phẳng rộng rãi. Đế bằng lòng, ban tặng cho núi đẹp đầm rộng. Con cháu của họ ngày càng sinh sôi, gọi là man di. Bên ngoài làm vẻ ngây ngô, bên trong thì tinh ranh, ưa quê mùa cũ kỹ. Vì đời cha có công, mẹ là con vua, ruộng dùng để buôn bán, không truyền ấn phù ra ngoài, trưng thu tô thuế. Có người quân trưởng ở ấp, được ban ấn thụ, mũ dùng da rái cá. Tên người chủ soái gọi là tinh phu, gọi lẫn nhau là áng đồ. Ngày nay là họ người man ở Trường Sa, Vũ Lăng.
Ý kiến của Văn Nhân
Truyện chép trong Hậu Hán thư tức sách của thời Đông Hán . Thủ lãnh Lục lâm thảo khấu Lưu Tú hoàng đế của Đông Hán là kẻ đã diệt quốc thoán đoạt lịch sử và cả nền văn minh họ Hùng , dưới ngọn bút của đám bồi bút quanh ông ta thì dòng giống Hùng dĩ nhiên...là mọi rợ ,
Man rợ tột cùng như ghi trong truyện Bàn Hồ...
Nhiều dị bản chuyện Bàn hồ lưu hành trong nước Tàu chỉ ra người cả miền Hoa Nam là con cháu của chó Bàn Hồ...
Ở đây vấn đề phải xem xét là nguyên bản của truyện và những thêm thắt về sau kèm lời bình của đám học gỉa (không học thật) .
Thần thoại Trung hoa đã có tích ông Bàn cổ là tổ sinh ra loài người , đúng nghĩa của nó bàn cổ là ‘cái bàn cũ’ chẳng dính dáng gì đến sự kiện sáng thế tạo dựng vũ trụ và con người . Sử thuyết Hùng Việt đã hiệu chỉnh không có ông Bàn cổ chỉ có ông Bản Cả , dân gian Việt gọi là ông Bành tổ , bành đồng nghĩa với bản chỉ 1 cộng đồng người , cả là to nhất lớn nhất đứng đầu không còn ai ở trên nên Bản cả – bành tổ nghĩa chính xác là đấng thủy tổ của cộng đồng người .
Bàn Cổ là thủy tổ loài người , tương tự ...Bàn Hồ là thủy tổ giống người Hồ .
Hồ ở đây chính là giống Hồ trong ngũ Hồ loạn Hoa , tộc danh Hồ chỉ là trò tráo trở mập mờ chữ với nghĩa ..., thực ra ...Hung nô thiết Hồ (theo Bách Việt trùng cửu) , Hồ chính lả Hung nô là giống người gọi là rợ theo nghĩa man rợ , kém cỏi về tri thức , hung dữ trong tánh khí và tàn ác trong hành động .
Chó bàn Hồ là thủy tổ của Hung nô được chứng minh bởi tục thờ tô tem sói của người phía Bắc Trung quốc ngày nay .
Phân tích truyện bàn Hồ dựa trên ngôn ngữ Dịch học ...
Phép phiên thiết Hán văn đã chỉ ra Hồ là Hung nô , bản Hồ chỉ nghĩa là thủy tổ dòng Hung nô , chó là cẩu biến âm của Cửu con số của phía Tây ý chỉ đám người đến từ phía Tây Thiên hạ trên thực địa là giống rợ gọi là Tatar phiên âm là Thát – Đát – Thiết sau gọi chung là Mông – Thát , đặc điểm chung của giống này là gọi vua là Hãn , nước của Hãn gọi là Hãn quốc , quân là Hãn quân , Hãn kí âm La tinh là Khan được phiên thiết thành khiết đan , khi tan , khả hãn .v.v.
Nhung là tên gọi trong lịch sử chỉ tộc người phía đông Trung quốc , nhung là nhũn là mềm Dịch tượng chỉ phía Đông , nhà Châu ở phía Tây gọi dân Sơn Đông là Từ Nhung , Tần hay Tây Tần gọi người Sơn Tây Hà Bắc là người Nhung , lệnh cho Mông Điềm đuổi đi để đem dân Tần đến ở , Nhung trở thành tộc danh của người Hà Bắc – Sơn đông .
Phía Tây Dịch tượng là sự cứng rắn không đổi , tiếng Việt là khăng , khăng biến đổi thành khang – khung – cang , từ ý nghĩa gốc như thế đám đểu cáng biến thành Khương – trâu bò hay khuyển – chó ; Khuyển Nhung thực ra là Khang Nhung nghĩa là tộc người Nhung ở phía Tây chính là tổ tiên người Khang - Tạng ngày nay .
Chó Bàn Hồ lấy được ông chúa Hán tộc đem nhau về hang núi đẻ được 6 con trai , 6 con gái sau nòi giống nái núc thành ra giống dòng mọi rợ ...
Công chúa Hán lấy chó thì không phải bàn nhưng ý nghĩa việc đưa nhau về hang núi thì phải xét .
Trong Bát quái đồ , Quẻ Cấn tượng là núi trấn ở hướng màu đen , Đoài là cái hồ ở phía màu đỏ – lửa nóng tức hướng Xích đạo , ý nghĩa thực của việc đôi trai gái chó – người đưa nhau về núi thực ra là đưa nhau về hướng núi màu đen , Huyền thiên tức hướng Bắc ngày nay (Bắc Nam nay đã lộn ngược) , trên bản đồ Trung quốc Bắc chính là vùng Hoàng hà cái nôi của đám người gọi vua là Hãn , Hãn sau biến thành Hán danh từ riêng vừa là Tộc danh vừa là quốc danh vừa là tên triều đại .
Trung hoa chính gốc là của người ‘Hơn’ người ‘Hưng’ vua họ Lê họ Lý chẳng dính dáng gì với Hãn – Hán tộc của họ Lưu – Lu – Liêu như đám cạo sử gia đã ...mập mờ đánh lận con đen ...
Trong 1 dị bản về Bàn Hồ có kẻ dám liều lĩnh viết :
... Chó bèn rước dâu về ở một động núi cao phương nam. Về sau nàng sinh được sáu trai và sáu gái, là chư tổ của dân Nam Man. Đám hậu duệ càng sinh sôi nẩy nở lan tràn khắp miền nam sông Dương Tử cả đến biên vực láng giềng và xuống tận vùng thượng du cực nam (tức Bắc Việt sau này).
Thực ra việc chó Bàn Hồ có 6 con trai 6 con gái chỉ ra : số 6 của Hà đồ chỉ phía màu đen – Huyền thiên xưa nay gọi là phương Bắc như thế đám con cháu bàn Hồ là dòng giống của người phương Bắc đích thị là giống Hung nô về sau mà sử Tàu gọi là Ngũ Hồ .
Đoạn đoán mò ... “Ngày nay là họ người man ở Trường Sa, Vũ Lăng”...chỉ là sản phẩm của những cái đầu đất không biết tí gì về Dịch học , thấy chữ núi – non của phương Nan – Nam là đặt ngay vào đất Hồ Nam chẳng rõ huyền thiên Viêm thiên là gì ..., Hồ nam là đất Sở của người Bách Việt xưa , đám tôi tớ ‘nhà Giời’ tưởng được dịp hạ nhục người khác nào ngờ ‘gậy ông đập lưng ông’ sự việc vỡ lở ...Hung nô – Hồ giống gọi vua là Hãn mới là con cháu chó Bàn Hồ chính tông ...
Việc người Dao nhận Bàn Hồ là tổ tiên mình chỉ là sự tiếp thu văn hóa thiếu chọn lọc , trong cộng đồng Bách Việt người theo ngữ hệ Mông – Dao xưa có thời gian sinh sống lâu dài ở phía Bắc trước khi bị Hán tộc đẩy xuống phía Nam (nay) nên trong giao thoa đã tiếp thu nhiều đặc điểm văn hóa của người Hán không phải chỉ riêng truyện Bàn hồ .
Mới đây thôi có kẻ viết truyện ‘Tô tem Sói’ (xem trong cùng web - blog) ca ngợi tính ‘kiên cường bất khuất’ của chó sói trên thảo nguyên phải chăng là muốn phục hồi dòng máu ‘Bàn Hồ’ trong người họ để đe dọa thiên hạ ?.
Chẳng phải đe dọa suông mà con cháu Bàn Hồ đã đến biển Đông nhe nanh múa vuốt..; láng giềng ...coi chừng , coi chừng !!!.
Người dịch: Lệnh Lỗi Dương
Nguồn http://aivietnguyen.blogspot.com/2014/10/truyen-thuyet-ve-chu-cho-ban-ho.html
Nguyên văn
卷八十六 · 南蛮西南夷列传第七十
Phiên âm: Quyển bát thập lục · nam man tây nam di liệt truyện đệ thất thập
Dịch: Quyển tám mươi sáu: Liệt truyện thứ bảy mươi Nam Man Tây Nam Di
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương:
Nam Man là chỉ các tộc Việt ở phương Nam, Tây Nam Di là chỉ các tộc ở Vân Nam
Nguyên văn
昔高辛氏有犬戎之寇, 帝患其侵暴, 而征伐不克. 乃访募天下, 有能得犬戎之将吴将军头者, 购黄金千镒, 邑万家, 又妻以少女. 时帝有畜狗, 其毛五采, 名曰槃瓠.
Phiên âm
Tích cao tân thị hữu khuyển nhung chi khấu, đế hoạn kỳ xâm bạo, nhi chinh phạt bất khắc. Nãi phỏng mộ thiên hạ, hữu năng đắc khuyển nhung chi tương ngô tương quân đầu giả, cấu hoàng kim thiên dật, ấp vạn gia, hựu thê dĩ thiểu nữ. Thời đế hữu súc cẩu, kỳ mao ngũ thái, danh viết bàn hồ.
Dịch:
Ngày trước thời họ Cao Tân có giặc Khuyển Nhung, trong lúc Đế bị bệnh bèn xâm phạm, mà chinh phạt vẫn không khắc chế được. Bèn chiêu mộ hỏi khắp thiên hạ, người có thể lấy được đầu tướng Khuyển Nhung là Ngô tướng quân, sẽ ban cho ngàn dật vàng ròng, phong ấp vạn nhà, gả con gái cho. Vừa lúc đó Đế có con chó, lông năm sắc, tên gọi Bàn Hồ.
Lời bình của Lệnh Lỗi Dương:
Bàn Hồ là con chó nuôi trong nhà của Đế Cao Tân.
Nguyên văn
下令之后, 槃瓠遂衔人头造阙下, 群臣怪而诊之, 乃吴将军首也. 帝大喜, 而计槃瓠不可妻之以女, 又无封爵之道, 议欲有报而未知所宜. 女闻之, 以为帝皇下令, 不可违信, 因请行. 帝不得已, 乃以女配槃瓠. 槃瓠得女, 负而走入南山, 止石室中. 所处险绝, 人迹不至. 于是女解去衣裳, 为仆鉴之结, 着独力之衣. 帝悲思之, 遣使寻求, 辄遇风雨震晦, 使者不得进.
Phiên âm
Hạ lệnh chi hậu, bàn hồ toại hàm nhân đầu tạo khuyết hạ, quần thần quái nhi chẩn chi, nãi ngô tương quân thủ dã. Đế đại hỉ, nhi kế bàn hồ bất khả thê chi dĩ nữ, hựu vô phong tước chi đạo, nghị dục hữu báo nhi vị tri sở nghi. Nữ văn chi, dĩ vi đế hoàng hạ lệnh, bất khả vi tín, nhân thỉnh hành. Đế bất đắc dĩ, nãi dĩ nữ phối bàn hồ. Bàn hồ đắc nữ, phụ nhi tẩu nhập nam sơn, chỉ thạch thất trung. Sở xử hiểm tuyệt, nhân tích bất chí. Vu thị nữ giải khứ y thường, vi bộc giám chi kết, trứ độc lực chi y. Đế bi tư chi, khiển sứ tầm cầu, triếp ngộ phong vũ chấn hối, sứ giả bất đắc tiến.
Dịch
Sau khi lệnh ban xuống, Bàn Hồ đã tha được đầu người đến dưới cửa khuyết, quần thần kinh ngạc xem kỹ, thì chính là đầu của Ngô tướng quân. Đế rất mừng, nhưng suy tính Bàn Hồ không thể gả con gái, cũng không có cách nào phong tước, luận bàn muốn có đền đáp nhưng chưa có cách phù hợp. Cô gái nghe được, cho rằng làm vua đã ban lệnh xuống, không thể bội tín, vì thế xin được thi hành. Đế bất đắc dĩ phải đem con gái gả cho Bàn Hồ. Bàn Hồ được cô gái, cõng lên mà chạy vào Nam Sơn,
vào trong hang đá. Nơi đó hiểm trở, dấu chân người không tới. Thế rồi cô gái trút bỏ xiêm áo, phục xuống kết làm vợ chồng, chỉ mặc một cái áo đơn. Đế buồn nhớ, sai sứ đi tìm, thường gặp mưa gió mù sấm mịt mù ầm ầm, sứ giả không thể đi tiếp được.
Nguyên văn
经三年, 生子一十二人, 六男六女. 槃瓠死后, 因自相夫妻. 织绩木皮, 染以草实, 好五色衣服. 制裁皆有尾形. 其母后归, 以状白帝, 于是使迎致诸子. 衣裳班兰, 语言侏离, 好入山壑, 不乐平旷. 帝顺其意, 赐以名山广泽. 其后滋蔓, 号曰蛮夷. 外痴内黠, 安土重旧. 以先父有功, 母帝之女, 田作贾贩, 无关梁符传, 租税之赋. 有邑君长, 皆赐印绶, 冠用獭皮. 名渠帅曰精夫, 相呼为姎徒. 今长沙武陵蛮是也.
Phiên âm
Kinh tam niên, sinh tử nhất thập nhị nhân, lục nam lục nữ. Bàn hồ tử hậu, nhân tự tương phu thê. Chức tích mộc bì, nhiễm dĩ thảo thực, hảo ngũ sắc y phục. Chế tài giai hữu vĩ hình. Kỳ mẫu hậu quy, dĩ trạng bạch đế, vu thị sứ nghênh trí chư tử. Y thường ban lan, ngữ ngôn chu ly, hảo nhập sơn hác, bất nhạc bình khoáng. Đế thuận kỳ ý, tứ dĩ danh sơn quảng trạch. Kỳ hậu tư mạn, hiệu viết man di. Ngoại si nội hiệt, an thổ trọng cựu. Dĩ tiên phụ hữu công, mẫu đế chi nữ, điền tác cổ phiến, vô quan lương phù truyện, tô thuế chi phú. Hữu ấp quân trường, giai tứ ấn thụ, quan dụng thát bì. Danh cừ soái viết tinh phu, tương hô vi áng đồ. Kim trường sa vũ lăng man thị dã.
Dịch
Qua ba năm, sinh được mười hai người con, sáu nam sáu nữ. Sau khi Bàn Hồ chểt, bèn theo đó tự lấy nhau thành vợ chồng. Xe dệt vỏ cây, dùng hạt cỏ để nhuộm, thành quần áo năm sắc đẹp. Quy định đều có hình cái đuôi. Về sau người mẹ của họ trở về, kể rõ ngọn ngành cho Đế, bèn sai người đi nghênh đón các con. Áo quần loang lổ, nói năng ngộ nghĩnh, thích chui vào khe núi, không ưa bằng phẳng rộng rãi. Đế bằng lòng, ban tặng cho núi đẹp đầm rộng. Con cháu của họ ngày càng sinh sôi, gọi là man di. Bên ngoài làm vẻ ngây ngô, bên trong thì tinh ranh, ưa quê mùa cũ kỹ. Vì đời cha có công, mẹ là con vua, ruộng dùng để buôn bán, không truyền ấn phù ra ngoài, trưng thu tô thuế. Có người quân trưởng ở ấp, được ban ấn thụ, mũ dùng da rái cá. Tên người chủ soái gọi là tinh phu, gọi lẫn nhau là áng đồ. Ngày nay là họ người man ở Trường Sa, Vũ Lăng.
Ý kiến của Văn Nhân
Truyện chép trong Hậu Hán thư tức sách của thời Đông Hán . Thủ lãnh Lục lâm thảo khấu Lưu Tú hoàng đế của Đông Hán là kẻ đã diệt quốc thoán đoạt lịch sử và cả nền văn minh họ Hùng , dưới ngọn bút của đám bồi bút quanh ông ta thì dòng giống Hùng dĩ nhiên...là mọi rợ ,
Man rợ tột cùng như ghi trong truyện Bàn Hồ...
Nhiều dị bản chuyện Bàn hồ lưu hành trong nước Tàu chỉ ra người cả miền Hoa Nam là con cháu của chó Bàn Hồ...
Ở đây vấn đề phải xem xét là nguyên bản của truyện và những thêm thắt về sau kèm lời bình của đám học gỉa (không học thật) .
Thần thoại Trung hoa đã có tích ông Bàn cổ là tổ sinh ra loài người , đúng nghĩa của nó bàn cổ là ‘cái bàn cũ’ chẳng dính dáng gì đến sự kiện sáng thế tạo dựng vũ trụ và con người . Sử thuyết Hùng Việt đã hiệu chỉnh không có ông Bàn cổ chỉ có ông Bản Cả , dân gian Việt gọi là ông Bành tổ , bành đồng nghĩa với bản chỉ 1 cộng đồng người , cả là to nhất lớn nhất đứng đầu không còn ai ở trên nên Bản cả – bành tổ nghĩa chính xác là đấng thủy tổ của cộng đồng người .
Bàn Cổ là thủy tổ loài người , tương tự ...Bàn Hồ là thủy tổ giống người Hồ .
Hồ ở đây chính là giống Hồ trong ngũ Hồ loạn Hoa , tộc danh Hồ chỉ là trò tráo trở mập mờ chữ với nghĩa ..., thực ra ...Hung nô thiết Hồ (theo Bách Việt trùng cửu) , Hồ chính lả Hung nô là giống người gọi là rợ theo nghĩa man rợ , kém cỏi về tri thức , hung dữ trong tánh khí và tàn ác trong hành động .
Chó bàn Hồ là thủy tổ của Hung nô được chứng minh bởi tục thờ tô tem sói của người phía Bắc Trung quốc ngày nay .
Phân tích truyện bàn Hồ dựa trên ngôn ngữ Dịch học ...
Phép phiên thiết Hán văn đã chỉ ra Hồ là Hung nô , bản Hồ chỉ nghĩa là thủy tổ dòng Hung nô , chó là cẩu biến âm của Cửu con số của phía Tây ý chỉ đám người đến từ phía Tây Thiên hạ trên thực địa là giống rợ gọi là Tatar phiên âm là Thát – Đát – Thiết sau gọi chung là Mông – Thát , đặc điểm chung của giống này là gọi vua là Hãn , nước của Hãn gọi là Hãn quốc , quân là Hãn quân , Hãn kí âm La tinh là Khan được phiên thiết thành khiết đan , khi tan , khả hãn .v.v.
Nhung là tên gọi trong lịch sử chỉ tộc người phía đông Trung quốc , nhung là nhũn là mềm Dịch tượng chỉ phía Đông , nhà Châu ở phía Tây gọi dân Sơn Đông là Từ Nhung , Tần hay Tây Tần gọi người Sơn Tây Hà Bắc là người Nhung , lệnh cho Mông Điềm đuổi đi để đem dân Tần đến ở , Nhung trở thành tộc danh của người Hà Bắc – Sơn đông .
Phía Tây Dịch tượng là sự cứng rắn không đổi , tiếng Việt là khăng , khăng biến đổi thành khang – khung – cang , từ ý nghĩa gốc như thế đám đểu cáng biến thành Khương – trâu bò hay khuyển – chó ; Khuyển Nhung thực ra là Khang Nhung nghĩa là tộc người Nhung ở phía Tây chính là tổ tiên người Khang - Tạng ngày nay .
Chó Bàn Hồ lấy được ông chúa Hán tộc đem nhau về hang núi đẻ được 6 con trai , 6 con gái sau nòi giống nái núc thành ra giống dòng mọi rợ ...
Công chúa Hán lấy chó thì không phải bàn nhưng ý nghĩa việc đưa nhau về hang núi thì phải xét .
Trong Bát quái đồ , Quẻ Cấn tượng là núi trấn ở hướng màu đen , Đoài là cái hồ ở phía màu đỏ – lửa nóng tức hướng Xích đạo , ý nghĩa thực của việc đôi trai gái chó – người đưa nhau về núi thực ra là đưa nhau về hướng núi màu đen , Huyền thiên tức hướng Bắc ngày nay (Bắc Nam nay đã lộn ngược) , trên bản đồ Trung quốc Bắc chính là vùng Hoàng hà cái nôi của đám người gọi vua là Hãn , Hãn sau biến thành Hán danh từ riêng vừa là Tộc danh vừa là quốc danh vừa là tên triều đại .
Trung hoa chính gốc là của người ‘Hơn’ người ‘Hưng’ vua họ Lê họ Lý chẳng dính dáng gì với Hãn – Hán tộc của họ Lưu – Lu – Liêu như đám cạo sử gia đã ...mập mờ đánh lận con đen ...
Trong 1 dị bản về Bàn Hồ có kẻ dám liều lĩnh viết :
... Chó bèn rước dâu về ở một động núi cao phương nam. Về sau nàng sinh được sáu trai và sáu gái, là chư tổ của dân Nam Man. Đám hậu duệ càng sinh sôi nẩy nở lan tràn khắp miền nam sông Dương Tử cả đến biên vực láng giềng và xuống tận vùng thượng du cực nam (tức Bắc Việt sau này).
Thực ra việc chó Bàn Hồ có 6 con trai 6 con gái chỉ ra : số 6 của Hà đồ chỉ phía màu đen – Huyền thiên xưa nay gọi là phương Bắc như thế đám con cháu bàn Hồ là dòng giống của người phương Bắc đích thị là giống Hung nô về sau mà sử Tàu gọi là Ngũ Hồ .
Đoạn đoán mò ... “Ngày nay là họ người man ở Trường Sa, Vũ Lăng”...chỉ là sản phẩm của những cái đầu đất không biết tí gì về Dịch học , thấy chữ núi – non của phương Nan – Nam là đặt ngay vào đất Hồ Nam chẳng rõ huyền thiên Viêm thiên là gì ..., Hồ nam là đất Sở của người Bách Việt xưa , đám tôi tớ ‘nhà Giời’ tưởng được dịp hạ nhục người khác nào ngờ ‘gậy ông đập lưng ông’ sự việc vỡ lở ...Hung nô – Hồ giống gọi vua là Hãn mới là con cháu chó Bàn Hồ chính tông ...
Việc người Dao nhận Bàn Hồ là tổ tiên mình chỉ là sự tiếp thu văn hóa thiếu chọn lọc , trong cộng đồng Bách Việt người theo ngữ hệ Mông – Dao xưa có thời gian sinh sống lâu dài ở phía Bắc trước khi bị Hán tộc đẩy xuống phía Nam (nay) nên trong giao thoa đã tiếp thu nhiều đặc điểm văn hóa của người Hán không phải chỉ riêng truyện Bàn hồ .
Mới đây thôi có kẻ viết truyện ‘Tô tem Sói’ (xem trong cùng web - blog) ca ngợi tính ‘kiên cường bất khuất’ của chó sói trên thảo nguyên phải chăng là muốn phục hồi dòng máu ‘Bàn Hồ’ trong người họ để đe dọa thiên hạ ?.
Chẳng phải đe dọa suông mà con cháu Bàn Hồ đã đến biển Đông nhe nanh múa vuốt..; láng giềng ...coi chừng , coi chừng !!!.