by Khách viếng thăm 10/7/2010, 11:45 am
Bách Việt 18
*****
Hùng Vũ
Trải dâu bể năm ngàn năm trước
Bên dòng Chu xanh mướt ruộng đồng
Đọ Sơn, sông Mã ghi công
Khai quốc Hùng Vũ, tổ dòng họ Cơ.
Nước sông Cả tới giờ vẫn chảy
Núi Hang Bua dấu hãy còn in
Họ Hùng lập quốc khai tên
Triều thứ năm đức Hiên Viên đứng đầu.
Trận Trác Lộc dầu dầu sương khói
Kim chỉ Nam dẫn lối đưa đường
Diệt Xuy Vưu chốn xa trường
Thu Cửu Lê cánh đồng Chum Hạ Lào.
Thắng Viêm Đế Đường Đào một giải
Cùng Vụ Tiên Đan Thủy nên duyên
Nước non mãi mãi kết liền
Hưng Bang Viêm Việt còn truyền đại danh.
Xếp vạch quẻ nên hình bát quái
Gói càn khôn trời biển gió mưa
Rồng bay, hạc múa, nai đùa
Hổ chầu, voi phục, sấu, rùa lội bơi.
Thuật cứu người Nội kinh tố vấn
Thấu đạo trời y thuật diệu minh
Âm dương luân chuyển, ngũ hành
Thông kinh, đả mạch tài tình, cao thâm.
Nhớ Hoàng Đế, nhớ ân Lụy Tổ
Dạy con dân canh cửi tằm tang
Dâu xanh, tằm nhả kén vàng
Kéo tơ, dệt lụa, tơ vương tay người.
Hùng Nghi. Hùng Thuấn
Nam Giao Chỉ một thời mở cõi
Hùng Hy Vương dòng dõi đế Minh
Đế Nghiêu đất nước thanh bình
Triều thứ sáu quốc hiệu danh Hồng Bàng.
Tiếp ngôi báu Lâm Lang, Hùng Thuấn
Triều thứ bảy đô đóng bản Bồ
Lạc Quốc dựng một cơ đồ
Ghi thời thịnh trị Đường Ngu đời đời
Đền Phong Châu ngút trời hương khói
Chữ vàng in Triệu Tổ Nam Bang
Từ sông Thao đến Châu giang
Dấu người Tày cổ bao ngàn đời nay.
Hùng Việt
Kìa một thuở biển đầy sóng gió
Ngọn triều dâng khắp chốn thành sông
Trắng trời nước ngập mênh mông
Cuốn băng nhà cửa ruộng đồng lúa ngô
Cửa Long Môn đắp bờ khơi suối
Nước càng cao, dựng núi càng cao
Vượt bao vất vả gian lao
Dân theo Hùng Việt quản nào thiên tai
Ba dòng tộc chung vai gắng sức
Nghi, Minh, Long nên bức Ba Vì
Sa Pa bãi đá khắc ghi
Liên Sơn dịch phép diệu kỳ ngàn xưa
Biển Đồ Sơn bao mùa vẫn nhắc
Hội chư hầu đủ khắp bốn phương
Nước non nên lúc thịnh cường
Triều thứ tám đức Tản Viên rạng ngời
Còn đâu đó dấu thời mở nước
Vết Phùng Nguyên, Đại Vũ Sơn Tinh
Quốc gia, dân tộc thành hình
Dứt thời sơ sử, chuyển mình vươn cao.
Hùng Hoa
Nước Nhĩ Hà dòng Thao cuồn cuộn
Mặt biển Đông dậy sóng xuất rồng
Thay cha nối nghiệp Lạc Long
Triều thứ chín đức Hải Lang hào hùng.
Khởi nhà Hạ Khải vương đoạt định
Tránh giao tranh Bá Ích di cư
Thanh Long - Bạch Hổ từ giờ
Hoa - Di cuộc chiến hơn thua không ngừng.
Nên vương quốc đúc đồng dựng đỉnh
Mở biên thùy bờ cõi chín châu
U – Minh đô đóng hai đầu
Bốn trăm năm lẻ đỏ mầu Hồng Bang.
Ham săn bắn Thái Khang lưu lạc
Bắn mặt trời Hậu Nghệ cứu dân
Hạn hán khô cạn ao đầm
Vua u tối để con dân bần hàn.
Hữu Ngu giúp Thiếu Khang phục Hạ
Thời Trung Hưng khai phá Cối Kê
Xăm mình, lội nước đắp đê
Đất thờ vua Vũ thành quê thành nhà.
Bốn ngàn năm dân Hoa dân Việt
Trang sử vàng bước tiếp người xưa
An Ấp còn đó Hoa Lư
Bồng Lai quê Mẹ bây giờ Hạ Long.
Hùng Huy
Đời Hạ Kiệt hoang dâm tàn bạo
Dựng lâu đài cung điện nguy nga
Dân chúng khốn khổ thán ca
"Mặt trời hãy tắt, chúng ta chết cùng!"
Dòng Đế Tiết Thành Thang nuôi chí
Tìm minh quân Y Doãn theo hầu
Mệnh trời chẳng phải đợi lâu
Cửu Di bất phục, rơi đầu hôn quân.
Tam Miêu kể từ lần Thuấn đế
Xuất Nam Giao, nay thế ngất trời
Hạ qua Xuân lại tới nơi
Long Tiên Lang triều thứ mười Hùng Huy.
Trùng trùng điệp uy nghi Ngũ Lĩnh
Đất trung tâm châu chính Kinh Dương
Quốc danh xưng hiệu Việt Thường
Xanh bên dòng nước sông Đường thủa xưa.
Qui tàng Dịch lưng rùa khắc chữ
Giáp cốt văn truyền tự mai sau
Thập can con số nhiệm màu
Mười tám vua nối tiếp nhau trị vì.
Hùng Vĩ
Dòng Trường Giang những khi tác quái
Ngập kinh thành nên phải dời đô
Vương tôn, quí tộc chẳng lo
Bàn Canh cùng với nông nô vượt hà.
Âu xiết kể trải qua gian khó
Thủa ban đầu Hùng Vĩ lập Ân
Kinh Man mở đất an dân
Triều thứ mười một, Thương lần thứ hai.
Phương Nam tiến đã ngoài vạn dặm
Từ Đào Đường nay chiếm Hoàng Hà
Đông Di, Nhung Địch đuổi ra
Trụ vương đô đóng Triều Ca, Lộc Đài.
Hùng Chiêu
Mổ bụng chú Ác Lai tàn bạo
Thánh đức dày Tây Bá Cơ Xương
Dĩu Lý tác Dịch phi thường
Sáu mươi tư quẻ rọi đường đi lên.
Dựng nghiệp lớn xây nền văn hiến
An Dương Vương đánh chiếm nước Sùng
Cơ trời Âu - Lạc nên chung
Quốc Tiên Lang mở triều Hùng mười hai.
Ngàn năm chẳng nhạt phai dòng máu
Chu Văn Vương con cháu Hiên Viên
Thiên di dấu tích còn nguyên
Lang Liêu, Cổ Thục một miền Vân Nam.
Nước muôn dặm Văn Lang một mối
Chọn đô thành đóng cõi Châu Phong
Hai bề Xuyên Thục, biển Đông
Trên Hồ Nam, dưới Hồ Tôn rõ ràng.
Hùng Ninh
Tiếp nghiệp cha Ninh Vương Cơ Phát
Hội chư hầu chinh phạt Ác Lai
Lên ba Thánh Gióng anh hài
Tung hoành ngựa sắt, khiếp oai giặc thù
Đốt Lộc Đài ù ù lửa khói
Dứt nhà Ân để nối nhà Chu
Bạch kỳ lồng lộng trời thu
Thừa Văn Lang – vua mười ba triều Hùng
Đây đất nước trùng trùng điệp điệp
Bốn phương trời đẹp tuyệt non sông
Văn Lang, Âu Lạc rạng hồng
Vòng quay Hà Lạc trống đồng ngàn năm
Chu hoàng đế tôn Văn, xưng Vũ
Dời Phong Châu, trấn giữ Cảo Kinh
Phân phong an định dân tình
Tề - Tây, Yên - Bắc, Sở - Kinh, Lỗ - Lào
Ngô cùng Việt tiếp giao bờ biển
Tấn với Tần phương cóng xa xăm
Hiếu sinh mở đức nhà Ân
Vũ Canh được giữ đất phần An Huy.
Tam Thúc giám để nguy xã tắc
Chống mệnh trời nghịch tặc kết binh
Chu Công vâng lệnh triều đình
Dẹp quân phản loạn, đắp thành Cổ Loa
Một thể chế Trung Hoa đất nước
Móng Kinh Qui lại được giao truyền
Cao Lỗ, Thục Phán lưu tên
Chu Dịch, Tông Pháp đặt nền văn minh.
Hùng Tạo
Loạn Quốc Nhân bỏ kinh trốn chạy
Chu Lệ Vương lưu Trại Hòa Bình
Vua tào bạo, dân điêu linh
“Cộng hòa hành chính” lập thành thay vua.
Lửa Ly Sơn trò đùa tai quái
Mua nụ cười mà hại đến thân
Bao Tự mê hoặc hôn quân
U Vương thác loạn, Khuyển Nhung phá thành.
Thế nước yếu hoàn kinh Cổ Lũy
Chu Bình Vương về lại Phong Châu
Tấn Tần tranh bá chư hầu
Sở, Tề, Tống đổi thay màu Xuân Thu.
Đông Chu nối Tây Chu thiên tử
Triều mười tư Hùng Tạo Quân Lang
Chiến Quốc máu chảy tràng giang
Xương chất thành núi, tiếng than dậy trời.
Muốn cứu đời thánh nhân Khổng Tử
Dốc lao tâm khổ tứ viết kinh
Thư, Thi, Dịch, Lễ, Nhạc thành
“Vạn thế sư biểu” tôn vinh đời đời.
Rạng rỡ thay một thời cổ sử
Mấy ngàn năm còn tỏ trời Đông
Văn minh đúc mặt trống đồng
Hướng về tiên tổ, nhận dòng anh em.
Hùng Định
Lặng lặng im mà nghe chuyện cũ
Tráo nỏ thần Trọng Thủy bội ân
Quốc Tây cự tráng Chân Đăng
Nhà Chu dứt, nối nhà Tần lập nên.
Diệt sáu nước Đinh Tiên Hoàng đế
Lấy Lạc Dương chia Quế, Tượng, Tam
Xua quân Ngô Việt qui hàng
Chiếm vùng Hà Sáo, vượt sang Hoàng Hà.
Nước Vỹ Thủy chảy ra biển lớn
Đất nhà Tần khắp bốn phương trời
Phân chia quận huyện rạch ròi
Trung Hoa thống nhất vào thời Chân Lang.
Thứ mười lăm triều Hùng Cồ Việt
Xây Trường Thành làm kiệt sức dân
Xa đồng trục, thư đồng văn
Chôn Nho, đốt sách oán ân để đời.
Khởi nghĩa chống Tần
Thủy Hoàng mất nơi nơi nổi dậy
Các chư hầu muốn lấy đất xưa
Quan Phục Trần Thắng xưng vua
Bên đầm Dạ Trạch đôi mùa giao tranh.
Hận nước cũ Hạng Lương, Hạng Tịch
Đất Cối Kê thiết lập quân binh
Dương Châu thành lũy chiếm nhanh
Tôn Sở Vương cờ nghĩa dành về tay.
Chém rắn trắng oai này Xích Đế
Chốn Mường Đăng khởi nghĩa Lý Bôn
Phong Châu cờ đỏ trống dồn
Bái Công vào trước kinh Tần yên dân.
Cậy sức mạnh đốt cung Hạng Vũ
Tiếm xưng vua Từ Sở Bá Vương
Hưng Suy đối kháng đôi đường
Tranh hùng thắng bại, Ô Giang kết hồi.