Năm 1009 có cây gạo ở làng Diên Uẩn bị sét đánh ,Theo ghi chép của sử sách (Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục) thì tại chỗ sét đánh trên thân cây hiện ra bài thơ sấm ngôn nói đến nhiều đời vua trong lịch sử Trung đại nước Việt .
Việt sử lược, bộ sử cổ nhất Việt Nam, chép nội dung bài thơ chỉ có 8 câu:
樹根杳杳
木表青青
禾刀木落
十八子成
震宮見日
兑宮隠星
六七年間
天下太平
Phiên âm:
Thụ căn điểu điểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Các sách sử đời sau như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép thêm 2 câu nữa:
東阿入地 (Đông a nhập địa)
木異再生 (Mộc dị tái sinh)
vào trước câu "Chấn cung kiến nhật", thành bài thơ gồm 10 câu. Dịch nghĩa bài thơ như sau:
Gốc rễ thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Dao chặt cây rụng
Mười tám hạt thành
Cành đâm xuống đất
Cây khác lại sinh
Đông mặt trời mọc
Tây sao náu mình
Khoảng sáu, bảy năm
Thiên hạ thái bình
Chia bài thơ thành 2 cột để phân tích
Ngoài nghĩa đen đã dịch sang Việt ngữ như trên , dân gian và giới nghiên cứu đã chỉ ra Ẩn nghĩa của của 1 số từ trong bài thơ :
* Câu 3: chữ Hòa (禾) + chữ Đao (刀) + chữ Mộc (木) ghép lại thành chữ Lê (黎).
*Câu 4: chữ Thập (十) + chữ Bát (八) + chữ Tử (子) ghép lại thành chữ Lý (李).
*Câu 7 : chữ Đông (東) ghép với chữ A (阿) thành chữ Trần (陳) .
Theo kiến gỉai phổ biến hiện nay bài thơ được giải mã mang nội dung tiên đoán việc nhà Lý... ‘Thập bát tử thành’ nối tiếp sau khi nhà tiền Lê của vua Lê đại Hành chấm dứt ...“Hòa đao mộc lạc” .
Bài thơ đã liệt kê các triều đạị nối tiếp nhau trong lịch sử Việt nam từ thời tiền Lê qua nhà Lí , nhà Trần mãi cho tới thời hậu Lê của vua Lê Lợi .
Cành đâm xuống đất
Cây khác lại sinh
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình
Nếu Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý ở Thăng long thành thuộc Phong châu tức đất phía Tây thì 5 đời vua Lê ở vế trên phải ứng với 4 đời vua Đại Việt – Đại Hưng cộng với vì chúa tạo dựng nhưng không xưng vương : Lê Ẩn ( phải chăng Hán sử đã biến họ Lê thành họ Lưu ?) ở Hưng vương phủ – Quảng châu kinh đô nước Đại Việt – Đại Hưng thời triều đình phía đông ?.
Nhắc lại đoạn sử thời khai sinh Đại Việt :
Lưu Ẩn và Lưu Nham là con của Lưu Khiêm , Lưu Khiêm còn gọi là Lưu tri Khiêm thứ sử Phong châu , Lưu tri Khiêm mất con là Lưu Ẩn kế thừa làm thứ sử Phong châu .
Lưu Ẩn và em là Lưu Nham từ Phong châu tiến chiếm Lưỡng Quảng mở rộng đất đai thống thuộc , năm 905 nhà Đường chính thức phong Lưu Ẩn làm Thanh hải quân tiết độ sứ , cuối đời Đường loạn lạc khắp cả miền lĩnh Nam người xưng tướng kẻ xưng vương riêng Lưu Ẩn vẫn không xưng vương kiến quốc .
Năm 907 Lưu Ẩn mất em là Lưu Nham kế vị , năm 917 Lưu Nham lập nên nước Đại Việt đóng đô ở Đại Hưng thành - Quảng Châu ở Quảng Đông .
Nhà Tống xua quân tiến đánh Đại Việt , năm 971 thì chiếm được kinh đô Quảng châu , triều Đông nước Đại Việt chấm dứt , nếu kể cả ‘tiên quân’ là Lưu Ẩn thì Đại Việt phía Đông sau cải là Đại Hưng có 5 đời vua , tồn tại 67 năm từ 905 đến 971 .
Theo phép phiên thiết Hán văn thì : Lưu Tri thiết LY như vậy họ Lưu trong sử Tàu chỉ là ...kí âm ‘đểu’ , chính xác : Lưu Tri thiết Li ; Li→Lê hay Lý mới phải .
Cha là Lê Khiêm thì con phải là Lê Ẩn – Lê Nham , vua Đại Việt không có ai họ Lưu ...đây chính là 5 đời vua nhà Lê trong bài sấm và câu đối ở đình Dương Lôi – Bắc ninh .
Phân tích bài thơ sấm trên cây gạo ...Tổng cộng 10 câu gom thành 5 đôi , 1 chẵn 1 lẻ ý đối xứng rất rõ ; bên nói nền bên nói ngọn , vế nói mất vế nói ra đời , vế nói Đông vế nói Tây ...
Cụ thể :
Ngọn cây xanh xanh ...nhà Lê - Lưu tri ở Đông Đại Việt là phần ngọn phía Đông mọc lên từ cái gốc nhà Lý ở Phong châu phía Tây .
Nhìn vào biểu trên ... Hòa đao mộc ghép thành nhà Lê nằm ở cột phía Đông đối xứng với ... Thập bát tử ghép thành Lý ở bên cột Tây .
Chấn cung kiến nhật... lúc vua và triều đình đóng ở Quảng Đông thì đấng anh tài Phong châu bên Tây [Đinh bộ] – [ Lĩnh] đang náu mình ẩn thân ... Đoài cung ẩn tinh.
Đông a nhập địa …đặc biệt Đông a trong sấm không chỉ nhà Trần như số đông hiện nay hiểu mà chỉ quân nhà Tống do Phan Mỹ (Phan Mỹ thiết phỉ chỉ giặc cướp) cầm đầu tiến chiếm Hưng vương phủ kinh đô phía đông Đại Việt , ý trong bài chỉ rõ sự nối liền lập tức 2 sự kiện Đông a nhập địa và Mộc dị tái sinh – Cây khác mọc lên , 2 câu này không thể kể là nói đến nhà Trần sau đó là nhà Hậu Lê vì tổ tiên nhà Trần từ Phúc Kiến đến sinh sống trên đất Việt ...nhập địa đã nhiều đời trước lâu lắm rồi mới dựng nên nhà Trần hoàn toàn không đúng với ý Đông a nhập địa thì Mộc dị tái sinh , quân Tống – Đông a nhập địa chiếm đất diệt triều đình Đại Việt phía Đông thì Lập tức người Việt lập ra triều đình ở phía Tây trên đất Phong châu – Giao chỉ mới đúng ý 2 câu thơ trên .
Lục thất niên gian không phải là khoảng 6 -7 năm mà là nói đến thời gian ‘sáu mươi bảy’ năm tồn tại của triều Đại Việt đô ở quảng Đông từ 905 đến 971 sau CN .
Thiên hạ thái bình ý nói vương quốc đại Việt vững bền từ đây dù có sóng gió nhỏ nhưng về cơ bản Việt nam tồn tại độc lập từ thời [Đinh bộ] – [Lĩnh] dựng triều cho đến mãi về sau [trừ 10 -20 năm gian khổ chống quân nhà Minh xâm lược và vài ngày quân nhà Thanh ...thăm viếng kinh thành Thăng long] .
Vấn đề nữa cuả thời kỳ này phải bàn :
Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:
Góc chùa cây cả trực trời
Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.
Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:
Điềm này nghiệm đến sự trời
Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua
Lên đền một mối tay thu
Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.
Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:
Thùy y củng thủ cửu trùng
Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài
Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi
Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.
Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long. Nước ta đầu triều Lý có tên là Hưng Quốc. Đây là quốc hiệu chưa từng được nói đến trong chính sử.
Thông tin này giúp củng cố luận điểm nước đại Việt ban đầu đô ở phiên Ngung hay Phiên Ngô sau đổi quốc hiệu thành Đại Hưng không có đại Hán đại Hung nào ở đây .
Nhà Lý sau khi chính thức xưng vương định đô ở Giao Chỉ phía Tây đã bỏ tên nước Đại Hưng lấy lại quốc hiệu Đại Việt ban đầu .
Thông tin trong sử cũ Sử cũ :Đại Cồ Việt (chữ Hán: 大瞿越, 968 – 1054) là quốc hiệu của Việt Nam dưới thời bảy vị vua trị vì thuộc ba triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý ...e rằng không chính xác .
Xét ra Cồ Việt cũng là Đại Việt ; cồ tiếng Việt nay ít dùng có nghĩa là to - lớn như chuyện gà Ri gà Cồ nghĩa là gà to gà nhỏ vậy , Cồ Việt và Đại Việt là một nói cho dễ hiểu thì cồ Việt la tên Nôm , đại Việt là tên chữ thế thôi tức không có chuyện đổi tên nước Cồ Việt thành Đại Việt như sử cũ chép ..
Dựa vào những điểm trên Sử thuyết Hùng Việt cho Lí công Uẩn – Lí thái tổ chính là Đinh bộ Lĩnh tức Đinh bộ Lí khắc Chính phò mã nhà Lê nước Đại Việt Đại Hưng kinh đô ở Phiên Ngung và Lí đức Chính – Lí thái tông là Đinh Liễn tức Đinh Lí Tiến cháu ngoại vua Đại Hưng .
Sách Lĩnh ngoại đại đáp đời Tống viết : Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu, báo sứ giả xin mệnh lệnh, trao cho họ Lê chức quan. Công Uẩn chết, con là Đức Chính lập…
Đức Chính chết, con là Nhật Tôn lập, tự xưng là Hoàng đế thứ ba của họ Lý nước Đại Việt…
Thông tin :Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu,là thông tin ngụy tạo nhưng đoạn sách cũng cung cấp thông tin quan trọng cùa nhà Lý Việt Nam : 2 vua đầu nhà Lý mang họ Lê , phải tới đời thứ 3 mới xưng họ Lý ,
Công Uẩn họ Lê nên con là Đức Chính cũng phải họ Lê .
Đức Chính được tôn thụy hiệu là Đại hành hoàng đế .
Phối hợp 2 dòng tin trên đưa đến kết luận không thể khác : Đức Chính chính là Lê đại Hành và là Hoàng đế thứ nhì nhà Lý Việt nam .
Khám phá : Đức Chính vua thứ nhì nhà Lý chính là vua Lê đại Hành mà sử ‘cũ’ gọi là nhà Tiền Lê là thông tin mang tính quyết định để từ mấu chốt đó xét lại toàn bộ sử nhà Lý :
Lê đại Hành kế ngôi Đinh bộ Lĩnh thì Đinh bộ Lĩnh chính là Công Uẩn chứ không thể ai khác . Công là tước nhưng Uẩn không phải là tên tục của vua , vua sinh ra ở làng Diên Uẩn châu Cổ pháp , nên người ta gọi theo phép kính trọng là Công Uẩn nghĩa là vị mang tước công sinh ra ở Diên Uẩn .
Sử viết vua đại Việt - đại Hán ở Phiên Ngu Quảng đông phái phò mã là Lí Khắc Chính và con là Lí Tiến sang cai trị nước Việt .
Đây là sự sai lầm cơ bản của sử gia phong kiến Việt Nam ,:
Vì kinh đô Phiên Ngung không nằm trong lãnh thổ đại Việt nhà Lý nên ắt Hán phải xem là nước ngoài và Lí khắc Chính và Lí Tiến là quan được phái sang cai trị nước ...ta .
Sử thuết Hùng Việt vân dụng phép Phiên thiết Hán văn đã chỉ ra :
Lí khắc Chính cũng là Lí Chính ; lí chính thiết Lĩnh chính là tên của Đinh bộ Lĩnh
Lí Tiến thiết Liễn là Đinh Liễn vua thứ nhì nhà Lí cũng chính là Lê đại Hành
Tóm lại :
Bài thơ ‘sét đánh cây gạo’ thời Lý nhìn theo góc nhìn mới hoàn toàn không phải là Sấm ký tiên đoán lịch sử nước Việt mà chính là lịch sử chân xác của nước Đại Việt với 2 giai đoạn kinh đô ở phía Đông và Tây , có thể vì lý do nào đó hoặc do bối cảnh chính trị lúc đó tác gỉa không thể nói thực , viết ra đoạn sử chân xác mà phải gửi cho đời sau văn bản ở dạng mã hóa để đến 1 lúc nào đó con cháu gỉai mã nhận ra 1 giai đoạn lịch sử dân tộc hoàn toàn khác với dòng sử chính thống .
Nước Đại Việt manh nha khởi lập từ những năm 905 , chính thức tuyên cáo cùng Thiên hạ năm 917 , kinh đô ban đầu đặt ở thành Phiên Ngu Quảng châu nay thuộc Quảng Đông , triều Đại Việt sau đổi quốc hiệu là Đại Hưng phía đông có 5 đời vua họ Lê không phải họ Lưu như Hán sử chép tồn tại 67 năm cho đến khi bị quan binh nhà Tống đánh chiếm . Người Việt đã lập triều đại mới ở phía Tây trên đất Giao chỉ gọi là Đinh triều , Đinh là dịch tượng chỉ phía Tây nối tiếp quốc thống Đại Việt , sử Việt gọi là 8 đời vua nhà Lý . Đinh Định Tịnh chỉ sự không đổi phía Tây - tử ngược với phía Đông sống động .
Bài thơ “sét đánh cây gạo” đã khẳng định Triều Lý Đại Việt là sự tiếp nối triều nhà Lê ở thành Phiên Ngu lập nên sau khi bị Tống quốc chiếm mất nửa lãnh thổ phía Đông . Phần Đại Việt trên đất Giao chỉ tồn tại đến ngày nay với quốc hiệu Việt Nam .
Kinh đô phiên Ngung phía Đông của nước Đại Việt xác định Lưỡng Quảng xưa là đất Việt , vùng Biển Nam lưỡng Quảng ngàn năm nay về mặt lịch sử vẫn là biển của người Việt , mọi dẫn chứng lươn lẹo của ...ai đó đều là dối trá lừa gạt .
Việt sử lược, bộ sử cổ nhất Việt Nam, chép nội dung bài thơ chỉ có 8 câu:
樹根杳杳
木表青青
禾刀木落
十八子成
震宮見日
兑宮隠星
六七年間
天下太平
Phiên âm:
Thụ căn điểu điểu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Các sách sử đời sau như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép thêm 2 câu nữa:
東阿入地 (Đông a nhập địa)
木異再生 (Mộc dị tái sinh)
vào trước câu "Chấn cung kiến nhật", thành bài thơ gồm 10 câu. Dịch nghĩa bài thơ như sau:
Gốc rễ thăm thẳm
Ngọn cây xanh xanh
Dao chặt cây rụng
Mười tám hạt thành
Cành đâm xuống đất
Cây khác lại sinh
Đông mặt trời mọc
Tây sao náu mình
Khoảng sáu, bảy năm
Thiên hạ thái bình
Chia bài thơ thành 2 cột để phân tích
Những câu nói về: Triều Tây nước Đại Việt | Những câu nói về: Triều Đông nước Đại Việt |
- 樹根杳杳 Thụ căn điểu điểu Gốc rễ thăm thẳm | - 木表青青 Mộc biểu thanh thanh Ngọn cây xanh xanh (thanh chỉ Thanh hải quân) |
-十八子成 Thập bát tử thành (họ Lý) Mười tám hạt thành (Thập bát tử- họ Lý) | -禾刀木落 Hòa đao mộc lạc Dao chặt cây rụng (Hòa đao mộc-họ Lê) |
-兑宮隠星 Đoài cung ẩn tinh Tây sao náu mình | - 震宮見日 Chấn cung kiến nhật Đông mặt trời mọc ( thời kinh đô Phiên Ngung) |
- 木異再生 Mộc dị tái sinh Cây khác lại sinh (lập triều Đinh - phía Tây) | - 東阿入地 Đông a nhập địa Cành đâm xuống đất (quân Tống chiếm nước) |
-天下太平 Thiên hạ thái bình Thiên hạ thái bình | - 六七年間 Lục thất niên gian Khoảng sáu bảy năm |
Ngoài nghĩa đen đã dịch sang Việt ngữ như trên , dân gian và giới nghiên cứu đã chỉ ra Ẩn nghĩa của của 1 số từ trong bài thơ :
* Câu 3: chữ Hòa (禾) + chữ Đao (刀) + chữ Mộc (木) ghép lại thành chữ Lê (黎).
*Câu 4: chữ Thập (十) + chữ Bát (八) + chữ Tử (子) ghép lại thành chữ Lý (李).
*Câu 7 : chữ Đông (東) ghép với chữ A (阿) thành chữ Trần (陳) .
Theo kiến gỉai phổ biến hiện nay bài thơ được giải mã mang nội dung tiên đoán việc nhà Lý... ‘Thập bát tử thành’ nối tiếp sau khi nhà tiền Lê của vua Lê đại Hành chấm dứt ...“Hòa đao mộc lạc” .
Bài thơ đã liệt kê các triều đạị nối tiếp nhau trong lịch sử Việt nam từ thời tiền Lê qua nhà Lí , nhà Trần mãi cho tới thời hậu Lê của vua Lê Lợi .
Cành đâm xuống đất
Cây khác lại sinh
Khoảng sáu bảy năm
Thiên hạ thái bình
Nếu Hoa sen 8 lá ứng vào 8 đời vua nhà Lý ở Thăng long thành thuộc Phong châu tức đất phía Tây thì 5 đời vua Lê ở vế trên phải ứng với 4 đời vua Đại Việt – Đại Hưng cộng với vì chúa tạo dựng nhưng không xưng vương : Lê Ẩn ( phải chăng Hán sử đã biến họ Lê thành họ Lưu ?) ở Hưng vương phủ – Quảng châu kinh đô nước Đại Việt – Đại Hưng thời triều đình phía đông ?.
Nhắc lại đoạn sử thời khai sinh Đại Việt :
Lưu Ẩn và Lưu Nham là con của Lưu Khiêm , Lưu Khiêm còn gọi là Lưu tri Khiêm thứ sử Phong châu , Lưu tri Khiêm mất con là Lưu Ẩn kế thừa làm thứ sử Phong châu .
Lưu Ẩn và em là Lưu Nham từ Phong châu tiến chiếm Lưỡng Quảng mở rộng đất đai thống thuộc , năm 905 nhà Đường chính thức phong Lưu Ẩn làm Thanh hải quân tiết độ sứ , cuối đời Đường loạn lạc khắp cả miền lĩnh Nam người xưng tướng kẻ xưng vương riêng Lưu Ẩn vẫn không xưng vương kiến quốc .
Năm 907 Lưu Ẩn mất em là Lưu Nham kế vị , năm 917 Lưu Nham lập nên nước Đại Việt đóng đô ở Đại Hưng thành - Quảng Châu ở Quảng Đông .
Nhà Tống xua quân tiến đánh Đại Việt , năm 971 thì chiếm được kinh đô Quảng châu , triều Đông nước Đại Việt chấm dứt , nếu kể cả ‘tiên quân’ là Lưu Ẩn thì Đại Việt phía Đông sau cải là Đại Hưng có 5 đời vua , tồn tại 67 năm từ 905 đến 971 .
Theo phép phiên thiết Hán văn thì : Lưu Tri thiết LY như vậy họ Lưu trong sử Tàu chỉ là ...kí âm ‘đểu’ , chính xác : Lưu Tri thiết Li ; Li→Lê hay Lý mới phải .
Cha là Lê Khiêm thì con phải là Lê Ẩn – Lê Nham , vua Đại Việt không có ai họ Lưu ...đây chính là 5 đời vua nhà Lê trong bài sấm và câu đối ở đình Dương Lôi – Bắc ninh .
Phân tích bài thơ sấm trên cây gạo ...Tổng cộng 10 câu gom thành 5 đôi , 1 chẵn 1 lẻ ý đối xứng rất rõ ; bên nói nền bên nói ngọn , vế nói mất vế nói ra đời , vế nói Đông vế nói Tây ...
Cụ thể :
Ngọn cây xanh xanh ...nhà Lê - Lưu tri ở Đông Đại Việt là phần ngọn phía Đông mọc lên từ cái gốc nhà Lý ở Phong châu phía Tây .
Nhìn vào biểu trên ... Hòa đao mộc ghép thành nhà Lê nằm ở cột phía Đông đối xứng với ... Thập bát tử ghép thành Lý ở bên cột Tây .
Chấn cung kiến nhật... lúc vua và triều đình đóng ở Quảng Đông thì đấng anh tài Phong châu bên Tây [Đinh bộ] – [ Lĩnh] đang náu mình ẩn thân ... Đoài cung ẩn tinh.
Đông a nhập địa …đặc biệt Đông a trong sấm không chỉ nhà Trần như số đông hiện nay hiểu mà chỉ quân nhà Tống do Phan Mỹ (Phan Mỹ thiết phỉ chỉ giặc cướp) cầm đầu tiến chiếm Hưng vương phủ kinh đô phía đông Đại Việt , ý trong bài chỉ rõ sự nối liền lập tức 2 sự kiện Đông a nhập địa và Mộc dị tái sinh – Cây khác mọc lên , 2 câu này không thể kể là nói đến nhà Trần sau đó là nhà Hậu Lê vì tổ tiên nhà Trần từ Phúc Kiến đến sinh sống trên đất Việt ...nhập địa đã nhiều đời trước lâu lắm rồi mới dựng nên nhà Trần hoàn toàn không đúng với ý Đông a nhập địa thì Mộc dị tái sinh , quân Tống – Đông a nhập địa chiếm đất diệt triều đình Đại Việt phía Đông thì Lập tức người Việt lập ra triều đình ở phía Tây trên đất Phong châu – Giao chỉ mới đúng ý 2 câu thơ trên .
Lục thất niên gian không phải là khoảng 6 -7 năm mà là nói đến thời gian ‘sáu mươi bảy’ năm tồn tại của triều Đại Việt đô ở quảng Đông từ 905 đến 971 sau CN .
Thiên hạ thái bình ý nói vương quốc đại Việt vững bền từ đây dù có sóng gió nhỏ nhưng về cơ bản Việt nam tồn tại độc lập từ thời [Đinh bộ] – [Lĩnh] dựng triều cho đến mãi về sau [trừ 10 -20 năm gian khổ chống quân nhà Minh xâm lược và vài ngày quân nhà Thanh ...thăm viếng kinh thành Thăng long] .
Vấn đề nữa cuả thời kỳ này phải bàn :
Sách Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) ngoài chuyện chú chó con có chữ Thiên tử trên còn nói đến truyền thuyết về cây gạo đầu làng Cổ Pháp bị sét đánh nứt đôi, bên trong có chữ đề:
Góc chùa cây cả trực trời
Lại có chữ bày Hưng Quốc chi niên.
Rồi Lý Khánh Văn nhân đó đoán:
Điềm này nghiệm đến sự trời
Nào ai tuổi Tuất ấy người làm vua
Lên đền một mối tay thu
Chữ Hưng Quốc ấy ắt là thiên nguyên.
Rồi khi Lý Công Uẩn lên ngôi:
Thùy y củng thủ cửu trùng
Cải nguyên Hưng Quốc đề phong trong ngoài
Hoa Lư hiểm địa hẹp hòi
Xa giá bèn dời về ở Thăng Long.
Như vậy sách Thiên Nam ngữ lục cho ta một thông tin rõ ràng: Hưng Quốc từng là tên nước ta thời kỳ đầu triều Lý, gắn liền với Lý Công Uẩn và việc dời đô ra Thăng Long. Nước ta đầu triều Lý có tên là Hưng Quốc. Đây là quốc hiệu chưa từng được nói đến trong chính sử.
Thông tin này giúp củng cố luận điểm nước đại Việt ban đầu đô ở phiên Ngung hay Phiên Ngô sau đổi quốc hiệu thành Đại Hưng không có đại Hán đại Hung nào ở đây .
Nhà Lý sau khi chính thức xưng vương định đô ở Giao Chỉ phía Tây đã bỏ tên nước Đại Hưng lấy lại quốc hiệu Đại Việt ban đầu .
Thông tin trong sử cũ Sử cũ :Đại Cồ Việt (chữ Hán: 大瞿越, 968 – 1054) là quốc hiệu của Việt Nam dưới thời bảy vị vua trị vì thuộc ba triều đại: nhà Đinh, nhà Tiền Lê và đầu thời nhà Lý ...e rằng không chính xác .
Xét ra Cồ Việt cũng là Đại Việt ; cồ tiếng Việt nay ít dùng có nghĩa là to - lớn như chuyện gà Ri gà Cồ nghĩa là gà to gà nhỏ vậy , Cồ Việt và Đại Việt là một nói cho dễ hiểu thì cồ Việt la tên Nôm , đại Việt là tên chữ thế thôi tức không có chuyện đổi tên nước Cồ Việt thành Đại Việt như sử cũ chép ..
Dựa vào những điểm trên Sử thuyết Hùng Việt cho Lí công Uẩn – Lí thái tổ chính là Đinh bộ Lĩnh tức Đinh bộ Lí khắc Chính phò mã nhà Lê nước Đại Việt Đại Hưng kinh đô ở Phiên Ngung và Lí đức Chính – Lí thái tông là Đinh Liễn tức Đinh Lí Tiến cháu ngoại vua Đại Hưng .
Sách Lĩnh ngoại đại đáp đời Tống viết : Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu, báo sứ giả xin mệnh lệnh, trao cho họ Lê chức quan. Công Uẩn chết, con là Đức Chính lập…
Đức Chính chết, con là Nhật Tôn lập, tự xưng là Hoàng đế thứ ba của họ Lý nước Đại Việt…
Thông tin :Năm thứ ba niên hiệu Đại Trung Tường Phù, Chí Trung chết , có con mới mười tuổi, Lý Công Uẩn giả xưng họ Lê, giết đi, tự xưng Lưu Hậu,là thông tin ngụy tạo nhưng đoạn sách cũng cung cấp thông tin quan trọng cùa nhà Lý Việt Nam : 2 vua đầu nhà Lý mang họ Lê , phải tới đời thứ 3 mới xưng họ Lý ,
Công Uẩn họ Lê nên con là Đức Chính cũng phải họ Lê .
Đức Chính được tôn thụy hiệu là Đại hành hoàng đế .
Phối hợp 2 dòng tin trên đưa đến kết luận không thể khác : Đức Chính chính là Lê đại Hành và là Hoàng đế thứ nhì nhà Lý Việt nam .
Khám phá : Đức Chính vua thứ nhì nhà Lý chính là vua Lê đại Hành mà sử ‘cũ’ gọi là nhà Tiền Lê là thông tin mang tính quyết định để từ mấu chốt đó xét lại toàn bộ sử nhà Lý :
Lê đại Hành kế ngôi Đinh bộ Lĩnh thì Đinh bộ Lĩnh chính là Công Uẩn chứ không thể ai khác . Công là tước nhưng Uẩn không phải là tên tục của vua , vua sinh ra ở làng Diên Uẩn châu Cổ pháp , nên người ta gọi theo phép kính trọng là Công Uẩn nghĩa là vị mang tước công sinh ra ở Diên Uẩn .
Sử viết vua đại Việt - đại Hán ở Phiên Ngu Quảng đông phái phò mã là Lí Khắc Chính và con là Lí Tiến sang cai trị nước Việt .
Đây là sự sai lầm cơ bản của sử gia phong kiến Việt Nam ,:
Vì kinh đô Phiên Ngung không nằm trong lãnh thổ đại Việt nhà Lý nên ắt Hán phải xem là nước ngoài và Lí khắc Chính và Lí Tiến là quan được phái sang cai trị nước ...ta .
Sử thuết Hùng Việt vân dụng phép Phiên thiết Hán văn đã chỉ ra :
Lí khắc Chính cũng là Lí Chính ; lí chính thiết Lĩnh chính là tên của Đinh bộ Lĩnh
Lí Tiến thiết Liễn là Đinh Liễn vua thứ nhì nhà Lí cũng chính là Lê đại Hành
Tóm lại :
Bài thơ ‘sét đánh cây gạo’ thời Lý nhìn theo góc nhìn mới hoàn toàn không phải là Sấm ký tiên đoán lịch sử nước Việt mà chính là lịch sử chân xác của nước Đại Việt với 2 giai đoạn kinh đô ở phía Đông và Tây , có thể vì lý do nào đó hoặc do bối cảnh chính trị lúc đó tác gỉa không thể nói thực , viết ra đoạn sử chân xác mà phải gửi cho đời sau văn bản ở dạng mã hóa để đến 1 lúc nào đó con cháu gỉai mã nhận ra 1 giai đoạn lịch sử dân tộc hoàn toàn khác với dòng sử chính thống .
Nước Đại Việt manh nha khởi lập từ những năm 905 , chính thức tuyên cáo cùng Thiên hạ năm 917 , kinh đô ban đầu đặt ở thành Phiên Ngu Quảng châu nay thuộc Quảng Đông , triều Đại Việt sau đổi quốc hiệu là Đại Hưng phía đông có 5 đời vua họ Lê không phải họ Lưu như Hán sử chép tồn tại 67 năm cho đến khi bị quan binh nhà Tống đánh chiếm . Người Việt đã lập triều đại mới ở phía Tây trên đất Giao chỉ gọi là Đinh triều , Đinh là dịch tượng chỉ phía Tây nối tiếp quốc thống Đại Việt , sử Việt gọi là 8 đời vua nhà Lý . Đinh Định Tịnh chỉ sự không đổi phía Tây - tử ngược với phía Đông sống động .
Bài thơ “sét đánh cây gạo” đã khẳng định Triều Lý Đại Việt là sự tiếp nối triều nhà Lê ở thành Phiên Ngu lập nên sau khi bị Tống quốc chiếm mất nửa lãnh thổ phía Đông . Phần Đại Việt trên đất Giao chỉ tồn tại đến ngày nay với quốc hiệu Việt Nam .
Kinh đô phiên Ngung phía Đông của nước Đại Việt xác định Lưỡng Quảng xưa là đất Việt , vùng Biển Nam lưỡng Quảng ngàn năm nay về mặt lịch sử vẫn là biển của người Việt , mọi dẫn chứng lươn lẹo của ...ai đó đều là dối trá lừa gạt .