Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

» Vài hàng ...nhân ngày giỗ quốc tổ .
by Admin 18/4/2024, 11:54 am

» Đầu non
by Admin 28/3/2024, 9:39 am

» Trời xanh -mây trắng -núi hồng (hình chụp ở Mĩ)
by Admin 22/3/2024, 2:26 pm

» Thời Bắc thuộc (viết lại)
by Admin 20/3/2024, 1:36 pm

» Lẩn thẩn ...Tiền Hậu , Đông Tây ...không thể nối .
by Admin 13/3/2024, 11:09 am

» Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác .
by Admin 1/3/2024, 4:52 pm

» Suy nghĩ về cặp đôi Nam – Nữ
by Admin 24/2/2024, 4:58 pm

» 2 chuyện cần bàn thêm
by Admin 23/2/2024, 2:39 pm

» Sử Việt 2 chuyện cần bàn .
by Admin 22/2/2024, 11:49 am

» Cẩn thận Chữ với nghĩa
by Admin 13/2/2024, 2:59 pm

Gallery


Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT) Empty

May 2024

MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Calendar Calendar

Khách thăm



Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT) Flags_1



    Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT)

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1186
    Join date : 31/01/2008

    Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT) Empty Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT)

    Bài gửi by Admin 9/5/2013, 10:05 am

    Bách Việt trùng cửu – nguồn http://my.opera.com/bachviet18/blog/


    Truyền tích về Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và
    năm anh em chàng Vịt mang đến một suy nghĩ bất ngờ. Khởi nghĩa của Nhị
    Trưng Vương không phải xảy ra vào những năm 40 dưới thời Đông Hán, mà là
    ngay sau thất bại của nhà Triệu Nam Việt, thời Tây Hán. Ý tưởng này
    nghe thật vô lý, nhưng có lẽ lại là có lý nhất trong chuyện về Trưng
    Vương, giải đáp và gắn kết được phần lớn những di tích, truyền thuyết
    còn lại trong dân gian với sử sách.


    Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT) Image002


    Đền Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa ở Thanh Lãng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc.

    Nguyên nhân khởi nghĩa Trưng Vương là “đền nợ nước, trả thù nhà” hoàn
    toàn chính xác. “Nước” ở đây là nước Nam Việt đã bị mất trong tay nhà
    Hán (Tây Hán). “Nhà” là vua Triệu Vệ Dương Vương, đã tử tiết ở cửa Đại
    Ác. Trưng Vương là vợ của Triệu Việt Vương, chuyện này quá “ly kỳ”, thật
    khó tin, nhưng không có gì hợp lý hơn để giải thích giai đoạn lịch sử
    khúc mắc này.


    Thi Sách là người huyện Chu Diên… Triệu Quang Phục cũng là người Chu
    Diên. Chu Diên tức là Châu Dương, là phần Đông nước Nam Việt thời nhà
    Triệu.


    Ở Mê Linh, xã Tiền Phong có Miếu Bà thờ Ả Lã Nàng Ngu, tương truyền
    là thứ phi của Triệu Quang Phục về sống ở đây. Có thể thấy các vị hoàng
    hậu và vương phi nhà Triệu đã thoát về vùng Mê Linh này. Nhiều người
    trong số đó (như Ả Lã) mang họ Lã (Lữ) của Lữ Gia.


    Khởi nghĩa Hai Bà Trưng có nhiều nữ tướng tham gia bởi vì… đó là gia
    quyến của nhà Triệu, con cháu họ Lữ, noi gương anh hùng của nữ tiền
    nhân là … Lữ Hậu. Nếu Trưng Vương không phải là hoàng phi nhà Triệu thì
    làm sao “hô một tiếng” cả 7 quận Nam Việt cũ lại nhất tề đứng dậy đi
    theo được? Theo truyền thuyết thì cả Trưng Trắc và Trưng Nhị đều lấy Thi
    Sách. Nếu Thi Sách chỉ là con quan huyện thì làm sao lấy nhiều vợ được?
    Còn vua Triệu thì chắc chắn có nhiều hoàng phi.


    Phần Đông Nam Việt thất thủ. Gia quyến nhà Triệu rút về phía Tây
    cùng Lữ Gia, tức là về vùng đất Phong Châu. Cũng từ nơi này khởi nghĩa
    Hai Bà Trưng đã nổ ra. Phong Châu là Minh Đô thời vua Hùng nên còn gọi
    là Mê Linh vì Mê Linh thiết Minh (Đô kỳ đóng cõi Mê Linh). Đây
    cũng gọi là vùng Tây Vu hay Tây Lý, được đề cập đến trong cuộc hành quân
    của Mã Viện. Có thể Trưng Vương chính là Tây Vu Vương, tức là vua phía
    Tây thời này.


    Từ miền Tây thổ Phong Châu Hai Bà Trưng đã đánh xuống trị sở của Giao Chỉ ở Long Biên, đuổi thái thú là Tô Định về Nam Hải:
    Ngàn Tây nổi áng phong trần
    Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên.
    Có thể Tô Định chính là Thạch Đái, viên thứ sử đầu tiên của nhà Tây Hán ở Giao Chỉ.


    Giao Chỉ rơi vào tay Trưng Vương. Nhà Hán (Tây Hán) cử Phục Ba tướng
    quân đối phó, tức là Lộ Bác Đức, người đã đánh dẹp Nam Việt trước đó,
    chứ không phải Mã Viện của nhà Đông Hán sau này. Cuộc hành quân của Mã
    Viện mà sử sách ghi chép nhiều khả năng là cuộc hành quân của Lộ Bác Đức
    cùng với đoàn lâu thuyền tấn công Giao Chỉ.


    Trận chiến lớn giữa Trưng Vương và Lộ Bác Đức nổ ra ở Lãng Bạc.
    “Sông Bạch Đằng phá giặc” trong câu đối về năm anh em chàng Vịt là dòng
    Lãng Bạc thời Trưng Vương. Lãng Bạc và Bạch Đằng đều chung một nghĩa là
    “sóng trắng” mà thôi. Có thể dòng Lãng Bạc là sông Cầu, hay sông Nguyệt
    Đức, nơi năm anh em chàng Vịt đã giúp Trưng Vương đánh giặc theo thần
    tích ở đền Mẫu Thanh Lãng.


    Quanh vùng huyện Mê Linh ngày nay, một số làng như Thanh Lâm – Thanh
    Tước hay Cư An – Tam Đông còn tục thờ Phục Ba tướng quân. Đây là thờ Lộ
    Bác Đức của nhà Hiếu chứ không phải Mã Viện. Người xây Kiển Thành ở Cổ
    Loa chắc cũng là Lộ Bác Đức. Huyện Mê Linh ngày nay trước có tên là Yên
    Lãng. Có thể tên này cũng là do Lộ Bác Đức đặt, với nghĩa là “yên sóng”
    như danh Phục Ba. Phục Ba Lộ Bác Đức đã dẹp yên cơn sóng khởi nghĩa của
    hậu duệ nhà Triệu và Lữ Gia.


    Nhận định khởi nghĩa Hai Bà Trưng là của gia quyến nhà Triệu Nam
    Việt, họ Lữ khi rút về Phong Châu đã chống lại nhà Hiếu, còn đem tới một
    liên hệ khác. Tinh thần “chống Lý trung Triệu” lúc này còn có anh em
    Trương Hống, Trương Hát. Rất có thể chuyện Trương Hống, Trương Hát chỉ
    là một cách kể khác của khởi nghĩa Trưng Vương mà thôi.


    Khi nhà Triệu mất, Trương Hống Trương Hát bỏ về núi Phù Long ở ẩn.
    Phù Long thiết Phong, tức là về vùng Phong Châu, giống với chuyện của
    Hai Bà Trưng. Trương và Trưng rõ ràng là gần âm, nghĩa là “trưởng”,
    “chủ”.


    Liên tưởng xa hơn:
    - Hống nghĩa là lớn. Trương Hống là vị chủ cả. Hát có thể là Hai, Trương
    Hát là vị chủ thứ hai. Như vậy Trương Hống, Trương Hát rất gần với
    Trưng Trắc, Trưng Nhị.
    - Hống còn có thể là Hồng, chỉ dòng sông Hồng. Hát thì vốn là tên của
    sông Đáy. Hai Bà Trưng đọc lời thề, khởi nghĩa ở Hát Môn, là nơi bắt đầu
    sông chia 2 nhánh Hồng và Hát. Trưng Trắc đóng ở Long Biên hay Cổ Loa
    bên bờ sông Hồng nên có nghĩa là vị chủ sông Hồng (Trương Hống). Trưng
    Nhị đóng ở thành Dền, đối diện cửa sông Đáy, nên có nghĩa là vị chủ sông
    Hát (Trương Hát).


    Dòng Lãng Bạc trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng có thể là sông Nguyệt
    Đức, tức là dòng Như Nguyệt của thánh Tam Giang (Trương Hống, Trương
    Hát). Khi khởi nghĩa thất bại Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát tự vẫn.
    Còn Trương Hống, Trương Hát kiên quyết không theo Lý Phật Tử, cũng nhảy
    xuống sông Như Nguyệt mà chết.


    Trương Hống Trương Hát được gọi là đức thánh Tam Giang. Tam Giang
    đây không phải là chỉ ngã ba sông Cà Lồ và sông Cầu. Tam Giang là vùng
    đất của 3 sông Đà Lô Thao hội tụ ở Phong Châu. Ở Vĩnh Phúc, bên bờ sông
    Lô có huyện Tam Dương, chân núi Tam Đảo. Dương = Giang. Có thể đây chính
    là vùng Tam Giang, nơi Trương Hống, Trương Hát rút về.


    Hậu Lữ Gia và Nhị Trưng Vương (TT) Image004


    Đình Bì La, xã Đồng Ích, Lập Thạch, Vĩnh Phúc.


    Ở vùng Tam Dương – Lập Thạch (Vĩnh Phúc) còn có đình Bì La (xã Đồng
    Ích) thờ Triệu Việt Vương và Trương Hống, Trương Hát. Nếu đúng sách vở
    hiện nay thì không hiểu tại sao ở đây lại thờ những vị này. Triệu Việt
    Vương chia đôi đất nước với Lý Phật Tử, lấy bãi Quân Thần ở Chèm làm
    ranh giới. Như vậy vùng Tam Dương thuộc đất của Lý Phật Tử, tại sao thờ
    Triệu Việt Vương làm gì? Trương Hống, Trương Hát thờ dọc sông Như Nguyệt
    (sông Cầu), mà vùng Tam Dương thì còn cách sông Cầu cả một dãy núi Tam
    Đảo.


    Truyền thuyết và lịch sử Việt Nam còn đầy những điều kỳ bí, cần làm
    sáng tỏ. Lịch sử luôn theo những qui luật tự nhiên, thông suốt, nối từ
    triều đại này sang triều đại kia. Tìm được mối liên hệ giữa các triều
    đại, các sự kiện tức là thấy được lịch sử đích thực.

      Hôm nay: 20/5/2024, 4:44 am