Bách Việt trùng cửu .
Theo Ngọc phả đền Bình Ngô (An Bình – Thuận Thành – Bắc Ninh): “Kinh Dương Vương là Hùng Vương thứ nhất, hiệu là Hùng Lộc Tục, lên ngôi năm 2879 trước công nguyên. Lạc Long Quân là Hùng Vương thứ hai, hiệu là Hùng Hiền Vương. Hùng Vương thứ 18 hiệu là Hùng Duệ Vương, mất ngôi năm 259 trước công nguyên. Mỗi hiệu Hùng Vương lại truyền ngôi vài đời, có khi dài mấy trăm năm.”
Ngày giỗ Kinh Dương Vương tại Á Lữ là ngày 18/1 âm lịch, là lúc ngài đi vào cõi Vĩnh Thiên (Vĩnh hằng thiên thu). Số 18 cũng như 18 đời Hùng Vương có nghĩa là trùng cửu, trường cửu hay Vĩnh cửu. Tháng 1 là tháng Giêng = Dương. 18/1 là lúc Kinh Dương Vương đi vào cõi Vĩnh Thiên.
Ở cổng đền Á Lữ đề:
Ẩm tư nguyên
Câu này cũng gặp ở hoành phi tại đền Hùng – Phú Thọ.
Liên hệ với câu đối ở bên cổng đền:
Quốc triệu hòa bình tư thủy tổ
Dân ? mỹ tục niệm Hồng nguyên.
Thông thường thành ngữ dùng “âm thủy tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn). Ở đây hoành phi đã bỏ đi chữ “thủy” có lẽ muốn nói cái gốc phải nhớ đây không phải là “hà” hay “thủy” mà là “Hồng nguyên”, là cái khởi đầu thủa Hồng hoa Viêm Giao Bàn Cổ.
Dịch nghĩa:
Vận nước bình yên nhớ thủy tổ
Mỹ tục nhân dân tự Lạc Hồng.
Cũng ở chính giữa cổng đền Á Lữ có câu:
Khải ngã Nam Bang Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển đinh Phúc Khang Nguyệt ? nhất đái thọ tân từ
Câu này gần với câu ở đền Hùng:
Khải ngã Nam Giao Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển vu Tây Thổ Tản Lô nhất đái thọ tân từ.
Trong vế thứ hai ở đền Á Lữ dùng chữ “đinh”, còn ở đền Hùng nhiều người đọc là “vu”, tuy nhiên trên thực tế ở đền Hùng có lẽ cũng là chữ “đinh” (theo sách 5000 hoành phi câu đối Việt Nam). “Đinh” với nghĩa là chắc chắn, rõ ràng.
Dịch nghĩa:
Mở đầu từ ngả Nam Bang, Hồng Lạc nghìn năm là nước lớn
Hiển hiện ở Phúc Khang, sông Nguyệt một dải vững đền nay.
“Phúc Khang”, sông Nguyệt có lẽ là chỉ vùng đất quanh Á Lữ và sông Đuống.
Những câu đối này thật mang một hào khí Lạc Hồng, từ nghìn năm xưa đã là “đế quốc”. Có lẽ những câu này được viết dưới thời Minh Mạng, khi nước Đại Nam lúc đó thực sự là một đế quốc sau khi thống nhất Bắc Nam Đông Tây gồm cả Chiêm, Lào, Chân Lạp, đúc cửu đỉnh ở Huế.
Trên ban thờ mẹ Âu Cơ có hoành phi cổ (từ thời Minh Mạng): “Bách Việt tổ”. Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng nên là tổ của Bách Việt.
Câu đối hai bên ban thờ Âu Cơ:
Tương truyền Lĩnh động tiên sinh thánh
Tòng thử Viêm phương quốc hữu quân.
Dịch nghĩa:
Động Lĩnh tương truyền mẹ tiên sinh con thánh
Phương Viêm từ đó nước nhà có đế vương.
Câu đối khác ở ban thờ Âu Cơ:
Việt Nam hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy
Hồng Bàng đế trụ thiên thu hà lạc tú chung linh.
Câu này gần với câu ở ban thờ Kinh Dương Vương:
Nam cực hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy
Bắc phương đế trụ thiên thu hà lạc tú chung linh.
“Hà Lạc” ở đây chính là chỉ “trời đất”, chứ không phải dịch “vui vẻ”, “hòa khí”.
Các câu đối thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ dùng cùng một hình thức vì vốn dĩ ba vị này được thờ ở 2 đền khác nhau tại Á Lữ. Sau đó đền Lạc Long Quân - Âu Cơ bị phá, mới di rời thờ chung trong đền Kinh Dương Vương thành đền Tam vị thánh tổ.
Dịch nghĩa câu ở ban thờ Âu Cơ:
Vương đồ Việt Nam, núi sông vạn dặm mở mang kiến tạo
Đế nền Hồng Bàng, trời đất nghìn thu đẹp đẽ linh thiêng.
Dịch nghĩa câu ở ban thờ Kinh Dương Vương
Vương đồ miền Nam, núi sông vạn dặm mở mang kiến tạo
Đế nền phương Bắc, trời đất nghìn thu đẹp đẽ linh thiêng.
Kinh Dương Vương là vị thủy tổ khai sử của người Việt. Mối liên hệ Viêm Giao Bàn Cổ - Kinh Dương Vương – Bách Việt cho thấy thực chất Trung Hoa cổ đại chính là lịch sử của người Việt.
Theo Ngọc phả đền Bình Ngô (An Bình – Thuận Thành – Bắc Ninh): “Kinh Dương Vương là Hùng Vương thứ nhất, hiệu là Hùng Lộc Tục, lên ngôi năm 2879 trước công nguyên. Lạc Long Quân là Hùng Vương thứ hai, hiệu là Hùng Hiền Vương. Hùng Vương thứ 18 hiệu là Hùng Duệ Vương, mất ngôi năm 259 trước công nguyên. Mỗi hiệu Hùng Vương lại truyền ngôi vài đời, có khi dài mấy trăm năm.”
Ngày giỗ Kinh Dương Vương tại Á Lữ là ngày 18/1 âm lịch, là lúc ngài đi vào cõi Vĩnh Thiên (Vĩnh hằng thiên thu). Số 18 cũng như 18 đời Hùng Vương có nghĩa là trùng cửu, trường cửu hay Vĩnh cửu. Tháng 1 là tháng Giêng = Dương. 18/1 là lúc Kinh Dương Vương đi vào cõi Vĩnh Thiên.
Ở cổng đền Á Lữ đề:
Ẩm tư nguyên
Câu này cũng gặp ở hoành phi tại đền Hùng – Phú Thọ.
Liên hệ với câu đối ở bên cổng đền:
Quốc triệu hòa bình tư thủy tổ
Dân ? mỹ tục niệm Hồng nguyên.
Thông thường thành ngữ dùng “âm thủy tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn). Ở đây hoành phi đã bỏ đi chữ “thủy” có lẽ muốn nói cái gốc phải nhớ đây không phải là “hà” hay “thủy” mà là “Hồng nguyên”, là cái khởi đầu thủa Hồng hoa Viêm Giao Bàn Cổ.
Dịch nghĩa:
Vận nước bình yên nhớ thủy tổ
Mỹ tục nhân dân tự Lạc Hồng.
Cũng ở chính giữa cổng đền Á Lữ có câu:
Khải ngã Nam Bang Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển đinh Phúc Khang Nguyệt ? nhất đái thọ tân từ
Câu này gần với câu ở đền Hùng:
Khải ngã Nam Giao Hồng Lạc thiên thu tôn đế quốc
Hiển vu Tây Thổ Tản Lô nhất đái thọ tân từ.
Trong vế thứ hai ở đền Á Lữ dùng chữ “đinh”, còn ở đền Hùng nhiều người đọc là “vu”, tuy nhiên trên thực tế ở đền Hùng có lẽ cũng là chữ “đinh” (theo sách 5000 hoành phi câu đối Việt Nam). “Đinh” với nghĩa là chắc chắn, rõ ràng.
Dịch nghĩa:
Mở đầu từ ngả Nam Bang, Hồng Lạc nghìn năm là nước lớn
Hiển hiện ở Phúc Khang, sông Nguyệt một dải vững đền nay.
“Phúc Khang”, sông Nguyệt có lẽ là chỉ vùng đất quanh Á Lữ và sông Đuống.
Những câu đối này thật mang một hào khí Lạc Hồng, từ nghìn năm xưa đã là “đế quốc”. Có lẽ những câu này được viết dưới thời Minh Mạng, khi nước Đại Nam lúc đó thực sự là một đế quốc sau khi thống nhất Bắc Nam Đông Tây gồm cả Chiêm, Lào, Chân Lạp, đúc cửu đỉnh ở Huế.
Trên ban thờ mẹ Âu Cơ có hoành phi cổ (từ thời Minh Mạng): “Bách Việt tổ”. Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng nên là tổ của Bách Việt.
Câu đối hai bên ban thờ Âu Cơ:
Tương truyền Lĩnh động tiên sinh thánh
Tòng thử Viêm phương quốc hữu quân.
Dịch nghĩa:
Động Lĩnh tương truyền mẹ tiên sinh con thánh
Phương Viêm từ đó nước nhà có đế vương.
Câu đối khác ở ban thờ Âu Cơ:
Việt Nam hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy
Hồng Bàng đế trụ thiên thu hà lạc tú chung linh.
Câu này gần với câu ở ban thờ Kinh Dương Vương:
Nam cực hoàng đồ vạn lý giang sơn đề tạo thủy
Bắc phương đế trụ thiên thu hà lạc tú chung linh.
“Hà Lạc” ở đây chính là chỉ “trời đất”, chứ không phải dịch “vui vẻ”, “hòa khí”.
Các câu đối thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ dùng cùng một hình thức vì vốn dĩ ba vị này được thờ ở 2 đền khác nhau tại Á Lữ. Sau đó đền Lạc Long Quân - Âu Cơ bị phá, mới di rời thờ chung trong đền Kinh Dương Vương thành đền Tam vị thánh tổ.
Dịch nghĩa câu ở ban thờ Âu Cơ:
Vương đồ Việt Nam, núi sông vạn dặm mở mang kiến tạo
Đế nền Hồng Bàng, trời đất nghìn thu đẹp đẽ linh thiêng.
Dịch nghĩa câu ở ban thờ Kinh Dương Vương
Vương đồ miền Nam, núi sông vạn dặm mở mang kiến tạo
Đế nền phương Bắc, trời đất nghìn thu đẹp đẽ linh thiêng.
Kinh Dương Vương là vị thủy tổ khai sử của người Việt. Mối liên hệ Viêm Giao Bàn Cổ - Kinh Dương Vương – Bách Việt cho thấy thực chất Trung Hoa cổ đại chính là lịch sử của người Việt.