Phương vị các ứng dụng Ngũ hành của Dịch học
Bản đồ Địa lý Việt theo Ngũ Hành
Đi sâu tìm hiểu thì nhận ra nhiều tên gọi của 5 hành ứng dụng
được đặt dựa trên đặc điểm tự nhiên Địa lý Việt nam thể hiện bằng Việt ngữ .
Bài này dùng Chuẩn mực 5 Sắc để từ đó đối chiếu xác định phương vị các ứng dụng còn lại của các Hành vì 5 sắc Dịch học vẫn giữ nguyên như ban đầu không thay đổi theo thời gian .
Đã có 1 số điều về địa lý trước nay không nhận ra :
Đơn cử ;
*Màu Đỏ -Hướng Bắc là hướng Xích đạo - Nóng bửc , bản thân từ xích là màu Đỏ rồi , Bắc là biến âm của bức - nóng tiếng Việt nên cũng gọi là Viêm thiên - hành Hoả .
*Màu xanh - Hướng Đông bên Mục là Hướng mặt Trời mọc , chính động từ Mọc Việt ngữ đã sinh ra hành Mộc là gỗ - cây , bên Mục là bên mặt Trời mọc ,cũng sinh ra tay Mặt của con người .
*Hướng Tây là hướng mặt trời lặn , người Việt gọi là ban Chiều , từ Chiều biến ra bên Chiêu nơi mặt Trời lặn , tay Chiêu là tay trái ngược lại với tay mặt bên Mục .
*Màu Đen ;Trong nền địa lý tự nhiên Đông phương riêng phía Nam hay phương Nam được đặt tên dựa trên hành động của con người :
Khi ta để tay Mặt ở bên Mục , tay Chiêu hay Siêu tức tay trái ở bên Chiêu - chiều thì hướng mắt nhìn gọi là hướng Nom - nhìn , văn minh Đông phương gọi là Quan phương , trong 4 phương trời là Huyền thiên .
Trục Bắc - Nam hiện thời đã lộn ngược so với địa lý tự nhiên Việt Nam nguyên thủy tức căn cứ trên tính chất vật lý không phải phán bừa tự đặt sao cũng được , Phương Nam Huyền thiên màu Đen , lạnh lẽo mờ tối đã bị lộn ngược thành Bắc , sở dĩ gọi là lộn ngược vì chứng lý bản thân từ Bắc là biến âm của bức tức nóng thế cho nên hợp lý ra thì Bắc - bức phải nằm về phía Xích đạo .
Việc đảo lộn Bắc Nam không phải là chuyện nhỏ trái lại nó khiến rất nhiều thông tin trong tư liệu cổ xưa về lịch sử và địa lý của Việt nam và Trung Hoa trở nên không chính xác . thông tin mang trong bản thân danh xưng không thể nhìn nhận chính xác được có thể khiến Lịch sử Thiên hạ đổi khác hoàn toàn tùy theo ý đồ chính trị của sử gia .
KInh Thư có chép ... vua Nghiêu mệnh Hy thúc trạch Nam Giao , do Bắc Nam lộn ngược nên ai đó mặc sức lếu láo ...Nam Giao là vùng đất Giao chỉ ở phía Nam Trung hoa , gọi là cố sức bẻ cong lịch sử vì nếu đúng theo chính sử Trung quốc thì mãi tới thời Ân sau vua Nghiêu đến hàng mấy ngàn năm người Trung quộc mới vượt qua Hoàng Hà xuống phía Nam thử hỏi vua Nghiêu vua Thuấn đã làm gì biết đến đất Giao chỉ ở phương Nam ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho danh xưng Nam Giao nói đến trong sách Thượng thư thực ra là Nam Giao chỉ , Giao chỉ là tên gịi của Việt Nam ngày nay , danh xưng Giao chỉ là Biến đổi của chỗ Giữa , sau Giao chỉ bộ có lúc gọi là Giao châu , Nam Giao tức Nam Giao chỉ chính là đất Lưỡng Quảng ,Giao là Giữa còn từ Quảng nghĩa là mở rộng chỉ việc khởi từ đất Giữa mà mở rộng lãnh thổ sang vùng đất phía Nam Giao chỉ là đất lưỡng Quảng ngày nay . hướng Nam đã dùng trong kinh Thư là hướng nguyên thủy của nền văn minh Dịch học dựa trên nền tảng tính chất vật lý tự nhiên ngược với tên gọi tùy tiên vô căn cứ như Bắc - Nam ngày nay .
5 Hành | 5 Sắc | 5 Vị | 4 Phương | 9 Thiên | 8 Quái | 5 Bộ | 5 Chất |
Kim | Vàng | Ngọt | Tâm | Quân thiên | (10- 5) | Khí | |
Mộc | Xanh | Cay | Đông | Thanh thiên | Chấn,Thìn | (8 - 3) | Gỗ-Mộc |
Thủy | Đen | Mặn | Nam | Huyền thiên | Cấn, Căn | (6 - 1) | Nước |
Hoả | Đỏ | Đắng | Bắc | Viêm thiên | Đoài,Đoạt | (7 - 2) | Lửa |
Thổ | Trắng | Chua | Tây | Hạo thiên | Tốn, Toán | (9 - 4) | Đá-Thổ |
Bản đồ Địa lý Việt theo Ngũ Hành
Đi sâu tìm hiểu thì nhận ra nhiều tên gọi của 5 hành ứng dụng
được đặt dựa trên đặc điểm tự nhiên Địa lý Việt nam thể hiện bằng Việt ngữ .
Bài này dùng Chuẩn mực 5 Sắc để từ đó đối chiếu xác định phương vị các ứng dụng còn lại của các Hành vì 5 sắc Dịch học vẫn giữ nguyên như ban đầu không thay đổi theo thời gian .
Đã có 1 số điều về địa lý trước nay không nhận ra :
Đơn cử ;
*Màu Đỏ -Hướng Bắc là hướng Xích đạo - Nóng bửc , bản thân từ xích là màu Đỏ rồi , Bắc là biến âm của bức - nóng tiếng Việt nên cũng gọi là Viêm thiên - hành Hoả .
*Màu xanh - Hướng Đông bên Mục là Hướng mặt Trời mọc , chính động từ Mọc Việt ngữ đã sinh ra hành Mộc là gỗ - cây , bên Mục là bên mặt Trời mọc ,cũng sinh ra tay Mặt của con người .
*Hướng Tây là hướng mặt trời lặn , người Việt gọi là ban Chiều , từ Chiều biến ra bên Chiêu nơi mặt Trời lặn , tay Chiêu là tay trái ngược lại với tay mặt bên Mục .
*Màu Đen ;Trong nền địa lý tự nhiên Đông phương riêng phía Nam hay phương Nam được đặt tên dựa trên hành động của con người :
Khi ta để tay Mặt ở bên Mục , tay Chiêu hay Siêu tức tay trái ở bên Chiêu - chiều thì hướng mắt nhìn gọi là hướng Nom - nhìn , văn minh Đông phương gọi là Quan phương , trong 4 phương trời là Huyền thiên .
Trục Bắc - Nam hiện thời đã lộn ngược so với địa lý tự nhiên Việt Nam nguyên thủy tức căn cứ trên tính chất vật lý không phải phán bừa tự đặt sao cũng được , Phương Nam Huyền thiên màu Đen , lạnh lẽo mờ tối đã bị lộn ngược thành Bắc , sở dĩ gọi là lộn ngược vì chứng lý bản thân từ Bắc là biến âm của bức tức nóng thế cho nên hợp lý ra thì Bắc - bức phải nằm về phía Xích đạo .
Việc đảo lộn Bắc Nam không phải là chuyện nhỏ trái lại nó khiến rất nhiều thông tin trong tư liệu cổ xưa về lịch sử và địa lý của Việt nam và Trung Hoa trở nên không chính xác . thông tin mang trong bản thân danh xưng không thể nhìn nhận chính xác được có thể khiến Lịch sử Thiên hạ đổi khác hoàn toàn tùy theo ý đồ chính trị của sử gia .
KInh Thư có chép ... vua Nghiêu mệnh Hy thúc trạch Nam Giao , do Bắc Nam lộn ngược nên ai đó mặc sức lếu láo ...Nam Giao là vùng đất Giao chỉ ở phía Nam Trung hoa , gọi là cố sức bẻ cong lịch sử vì nếu đúng theo chính sử Trung quốc thì mãi tới thời Ân sau vua Nghiêu đến hàng mấy ngàn năm người Trung quộc mới vượt qua Hoàng Hà xuống phía Nam thử hỏi vua Nghiêu vua Thuấn đã làm gì biết đến đất Giao chỉ ở phương Nam ?.
Sử thuyết Hùng Việt cho danh xưng Nam Giao nói đến trong sách Thượng thư thực ra là Nam Giao chỉ , Giao chỉ là tên gịi của Việt Nam ngày nay , danh xưng Giao chỉ là Biến đổi của chỗ Giữa , sau Giao chỉ bộ có lúc gọi là Giao châu , Nam Giao tức Nam Giao chỉ chính là đất Lưỡng Quảng ,Giao là Giữa còn từ Quảng nghĩa là mở rộng chỉ việc khởi từ đất Giữa mà mở rộng lãnh thổ sang vùng đất phía Nam Giao chỉ là đất lưỡng Quảng ngày nay . hướng Nam đã dùng trong kinh Thư là hướng nguyên thủy của nền văn minh Dịch học dựa trên nền tảng tính chất vật lý tự nhiên ngược với tên gọi tùy tiên vô căn cứ như Bắc - Nam ngày nay .