Hùng triều diễn tiến từ khi Thái tổ Hùng Vương Đế Minh làm thủ lĩnh chư hầu vạn bang truyền qua 4 giai đoạn cho tới khi thiên hạ Trung Hoa nhất thống trong một nước vào thời nhà Hiếu. Cuối thời nhà Hiếu, Vương Mãng một ngoại thích đã phế bỏ vua nhà Hiếu là Nhũ Tử Anh, tự lập triều đại mới, xưng là nhà Tân.
Vương Mãng có xuất thân quý tộc, là cháu 6 đời của Tề Kính Vương, vị Tề Vương cuối cùng thời Chiến Quốc. Tề Kính Vương từng tham gia chống Tần cùng Hạng Vũ, được phong là Tế Bắc vương. Con cháu do đó lấy Vương làm họ.
Là dòng dõi thế tộc nên Vương Mãng đã lấy Chu Công làm biểu trưng cho mình. Năm Công nguyên thứ nhất, Ích Châu cống Chim trĩ trắng, ca ngợi Vương Mãng như Chu Công. Rồi Vương Mãng còn bày việc cầu trời giải bệnh cho Hiếu Bình Đế (trên thực tế là đầu độc vua).
Vương Mãng ôm hoài bão phục cổ, tức là mong muốn tái tạo lại thịnh khí như nhà Chu xưa, theo Chu lễ, trọng Nho giáo. Nho đạo trở nên thịnh hơn so với của thời nhà Hiếu. Điển hình là Vương Mãng cho xây dựng Minh Đường (nơi làm việc của thiên tử), Tích Ung (nơi mở trường học) và Linh Đài (đài thiên văn) và xây nhà cửa cho những người có học tại kinh thành. Sau đó ông lệnh trưng tập những người có tay nghề đến dạy cho lớp trẻ. Những người tinh thông chữ nghĩa đều được triều đình ưu đãi.
Phải nói là chính sách của Vương Mãng rõ ràng đã có ảnh hưởng tích cực đến vùng Giao Châu, vùng đất cố tổ của Hùng Vương và Thiên tử Chu. Trên đất Giao Châu lúc này, các vị thái thú châu mục là Đặng Nhượng và Tích Quang, là những người bản địa ở Giao Châu được phong hầu. Các vị đã tích cực mở trường dạy học cho nhân dân khắp nơi, như ở Gia Lâm, Lý Đỏ (Hải Dương), Hoàng Mai (Hà Nội), Liên Bạt (Thanh Oai). Vì sự nghiệp “phổ cập giáo dục” này mà anh em họ Đặng được người Việt tôn là Nam Giao học tổ.
Vương Mãng tuy cổ súy phục hưng chế độ phong kiến của nhà Chu, nhưng thực tế ông đã tiến hành những cải cách mang tính chất tập trung quyền lực về chính quyền trung ương, hạn chế quyền lực của các quý tộc địa chủ, chủ nô. Chế độ tập quyền trung ương đạt đến mức “không tưởng”. Đất đai thuộc sở hữu của triều đình, tư nhân không được phép mua bán. Chấm dứt chế độ mua bán nô tỳ. Thực hiện lao động bắt buộc. Thực thi chế độ chuyên doanh rượu, muối và đồ sắt. Tiền tệ do triều đình phát hành thống nhất là "Bố tiền". Thực hiện chính sách kinh tế có kế hoạch, giá cả do triều đình khống chế. Thuế thu nhập thu theo công thức "thập nhất" (1/10)...
Chữ trên một chiếc gương đồng thời nhà Tân sớm ghi: Tỉnh điền bình bần quảng kỳ chí. Dịch là: Chia ruộng bình đẳng cho người nghèo, thỏa chí lớn. Cũng bắt đầu từ thời nhà Tân của họ Vương, xuất hiện loại gương đồng được gọi là Quy củ kính, với những hình vuông góc hình chữ T,L,V phân chia mặt kính thành các phần đều nhau. Liệu quy củ kính có phải là sự mô phỏng phép “tỉnh điền” thời Vương Mãng không?
Vương Mãng theo quan điểm phân biệt rõ ràng giữa "Hoa Hạ và Man Di". Ở đây là việc phân biệt rõ ràng giữa người trong thiên hạ Trung Hoa và người ngoại tộc như Hung Nô, Khương, Câu Ly... Do đó thay vì thỏa hiệp với các nước ngoài Trung Hoa như thời nhà Hiếu, Vương Mãng ép buộc, hạ cấp họ, gây các cuộc chiến lớn với các nước này.
Chữ thường gặp trên các gương đồng thời nhà Tân thể hiện tư tưởng này:
Vương thị tác kính tứ di phục
Đa giá Tân gia nhân dân tức
Hồ Lỗ điễn diệt thiên hạ phục
Phong vũ thời tiết ngũ cốc thục.
Dịch là:
Họ Vương tạo cảnh, Tứ Di phục
Nhân dân vui mừng cho nhà Tân
Tận diệt Hồ Lỗ, thiên hạ phục
Thời tiết mưa gió, ngũ cốc chín.
Theo thần tích về Đặng châu trưởng, dưới thời Vương Mãng ở Giao Châu các tù trưởng 7 quận nổi loạn. “Đặng Nhượng tiến quân đến Cửu Chân, lấy lễ nghĩa, lẽ thiệt hơn để khuyên giải. Giặc loạn tỉnh ngộ, bỏ giáp đến đầu hàng.” Các tù trưởng 7 quận Giao Châu ở đây có thể là hậu quân của Hai Bà Trưng.
Tiếc thay những cải cách nóng vội của Vương Mãng đã làm cho quốc lực suy cạn, loạn lạc giặc giã khắp nơi nổi lên. Cuối cùng Vương Mãng bị chết trong khi chống lại quân của Lưu Tú. Nhà Tân mất. Quyền thiên hạ rơi vào tay Hán tộc. Thời đại Hùng Vương của người Hoa Việt có thể tính là kết thúc ở đây.
Vua chết, nước mất, nhưng ở Giao Châu các danh sĩ trí thức đóng cửa biên ải tự giữ, chống lại Hán quân. Do đó những vị này còn có danh hiệu là Sĩ Nhiếp – kẻ sĩ nhiếp chính.
Vấn Dương kỷ thời thiên, vi quân tướng vi châu mục, vi giáo dục sư Nho, ân tín biến Thương Ngô thất quận ngoại
Long Biên hà nhật sự, thử thành quách thử nhân dân, thử giang hà vận hội, văn thái truyền Vũ Ninh nhất bộ trung.
Các vị châu mục thái thú của nhà Tân trên đất Giao Châu đã kiên cường chống lại quân Đông Hán, cuối cùng tử tiết ở Gia Lâm, trị sở Giao Châu lúc đó. Thiên hạ Trung Hoa rơi vào tay đám Lục Lâm thảo khấu, bắt đầu thời kỳ mất nước, “Bắc thuộc” của người Hoa Việt.
Vương Mãng có xuất thân quý tộc, là cháu 6 đời của Tề Kính Vương, vị Tề Vương cuối cùng thời Chiến Quốc. Tề Kính Vương từng tham gia chống Tần cùng Hạng Vũ, được phong là Tế Bắc vương. Con cháu do đó lấy Vương làm họ.
Là dòng dõi thế tộc nên Vương Mãng đã lấy Chu Công làm biểu trưng cho mình. Năm Công nguyên thứ nhất, Ích Châu cống Chim trĩ trắng, ca ngợi Vương Mãng như Chu Công. Rồi Vương Mãng còn bày việc cầu trời giải bệnh cho Hiếu Bình Đế (trên thực tế là đầu độc vua).
Vương Mãng ôm hoài bão phục cổ, tức là mong muốn tái tạo lại thịnh khí như nhà Chu xưa, theo Chu lễ, trọng Nho giáo. Nho đạo trở nên thịnh hơn so với của thời nhà Hiếu. Điển hình là Vương Mãng cho xây dựng Minh Đường (nơi làm việc của thiên tử), Tích Ung (nơi mở trường học) và Linh Đài (đài thiên văn) và xây nhà cửa cho những người có học tại kinh thành. Sau đó ông lệnh trưng tập những người có tay nghề đến dạy cho lớp trẻ. Những người tinh thông chữ nghĩa đều được triều đình ưu đãi.
Phải nói là chính sách của Vương Mãng rõ ràng đã có ảnh hưởng tích cực đến vùng Giao Châu, vùng đất cố tổ của Hùng Vương và Thiên tử Chu. Trên đất Giao Châu lúc này, các vị thái thú châu mục là Đặng Nhượng và Tích Quang, là những người bản địa ở Giao Châu được phong hầu. Các vị đã tích cực mở trường dạy học cho nhân dân khắp nơi, như ở Gia Lâm, Lý Đỏ (Hải Dương), Hoàng Mai (Hà Nội), Liên Bạt (Thanh Oai). Vì sự nghiệp “phổ cập giáo dục” này mà anh em họ Đặng được người Việt tôn là Nam Giao học tổ.
Vương Mãng tuy cổ súy phục hưng chế độ phong kiến của nhà Chu, nhưng thực tế ông đã tiến hành những cải cách mang tính chất tập trung quyền lực về chính quyền trung ương, hạn chế quyền lực của các quý tộc địa chủ, chủ nô. Chế độ tập quyền trung ương đạt đến mức “không tưởng”. Đất đai thuộc sở hữu của triều đình, tư nhân không được phép mua bán. Chấm dứt chế độ mua bán nô tỳ. Thực hiện lao động bắt buộc. Thực thi chế độ chuyên doanh rượu, muối và đồ sắt. Tiền tệ do triều đình phát hành thống nhất là "Bố tiền". Thực hiện chính sách kinh tế có kế hoạch, giá cả do triều đình khống chế. Thuế thu nhập thu theo công thức "thập nhất" (1/10)...
Chữ trên một chiếc gương đồng thời nhà Tân sớm ghi: Tỉnh điền bình bần quảng kỳ chí. Dịch là: Chia ruộng bình đẳng cho người nghèo, thỏa chí lớn. Cũng bắt đầu từ thời nhà Tân của họ Vương, xuất hiện loại gương đồng được gọi là Quy củ kính, với những hình vuông góc hình chữ T,L,V phân chia mặt kính thành các phần đều nhau. Liệu quy củ kính có phải là sự mô phỏng phép “tỉnh điền” thời Vương Mãng không?
Vương Mãng theo quan điểm phân biệt rõ ràng giữa "Hoa Hạ và Man Di". Ở đây là việc phân biệt rõ ràng giữa người trong thiên hạ Trung Hoa và người ngoại tộc như Hung Nô, Khương, Câu Ly... Do đó thay vì thỏa hiệp với các nước ngoài Trung Hoa như thời nhà Hiếu, Vương Mãng ép buộc, hạ cấp họ, gây các cuộc chiến lớn với các nước này.
Chữ thường gặp trên các gương đồng thời nhà Tân thể hiện tư tưởng này:
Vương thị tác kính tứ di phục
Đa giá Tân gia nhân dân tức
Hồ Lỗ điễn diệt thiên hạ phục
Phong vũ thời tiết ngũ cốc thục.
Dịch là:
Họ Vương tạo cảnh, Tứ Di phục
Nhân dân vui mừng cho nhà Tân
Tận diệt Hồ Lỗ, thiên hạ phục
Thời tiết mưa gió, ngũ cốc chín.
Theo thần tích về Đặng châu trưởng, dưới thời Vương Mãng ở Giao Châu các tù trưởng 7 quận nổi loạn. “Đặng Nhượng tiến quân đến Cửu Chân, lấy lễ nghĩa, lẽ thiệt hơn để khuyên giải. Giặc loạn tỉnh ngộ, bỏ giáp đến đầu hàng.” Các tù trưởng 7 quận Giao Châu ở đây có thể là hậu quân của Hai Bà Trưng.
Tiếc thay những cải cách nóng vội của Vương Mãng đã làm cho quốc lực suy cạn, loạn lạc giặc giã khắp nơi nổi lên. Cuối cùng Vương Mãng bị chết trong khi chống lại quân của Lưu Tú. Nhà Tân mất. Quyền thiên hạ rơi vào tay Hán tộc. Thời đại Hùng Vương của người Hoa Việt có thể tính là kết thúc ở đây.
Vua chết, nước mất, nhưng ở Giao Châu các danh sĩ trí thức đóng cửa biên ải tự giữ, chống lại Hán quân. Do đó những vị này còn có danh hiệu là Sĩ Nhiếp – kẻ sĩ nhiếp chính.
Vấn Dương kỷ thời thiên, vi quân tướng vi châu mục, vi giáo dục sư Nho, ân tín biến Thương Ngô thất quận ngoại
Long Biên hà nhật sự, thử thành quách thử nhân dân, thử giang hà vận hội, văn thái truyền Vũ Ninh nhất bộ trung.
Các vị châu mục thái thú của nhà Tân trên đất Giao Châu đã kiên cường chống lại quân Đông Hán, cuối cùng tử tiết ở Gia Lâm, trị sở Giao Châu lúc đó. Thiên hạ Trung Hoa rơi vào tay đám Lục Lâm thảo khấu, bắt đầu thời kỳ mất nước, “Bắc thuộc” của người Hoa Việt.