Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

» Vài hàng ...nhân ngày giỗ quốc tổ .
by Admin 18/4/2024, 11:54 am

» Đầu non
by Admin 28/3/2024, 9:39 am

» Trời xanh -mây trắng -núi hồng (hình chụp ở Mĩ)
by Admin 22/3/2024, 2:26 pm

» Thời Bắc thuộc (viết lại)
by Admin 20/3/2024, 1:36 pm

» Lẩn thẩn ...Tiền Hậu , Đông Tây ...không thể nối .
by Admin 13/3/2024, 11:09 am

» Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác .
by Admin 1/3/2024, 4:52 pm

» Suy nghĩ về cặp đôi Nam – Nữ
by Admin 24/2/2024, 4:58 pm

» 2 chuyện cần bàn thêm
by Admin 23/2/2024, 2:39 pm

» Sử Việt 2 chuyện cần bàn .
by Admin 22/2/2024, 11:49 am

» Cẩn thận Chữ với nghĩa
by Admin 13/2/2024, 2:59 pm

Gallery


Chiếc bình Lang Liêu Empty

May 2024

MonTueWedThuFriSatSun
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
2728293031  

Calendar Calendar

Khách thăm



Chiếc bình Lang Liêu Flags_1



    Chiếc bình Lang Liêu

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1186
    Join date : 31/01/2008

    Chiếc bình Lang Liêu Empty Chiếc bình Lang Liêu

    Bài gửi by Admin 21/6/2021, 9:04 am

    Nguồn – Chiếc bình Lang Liêu – Bách Việt trùng cửu (bahviet18.com)
    Chiếc bình cổ thời Tây Chu, gọi là Lai Lôi 逨罍, do có đúc một bài minh của một vị đại thần nhà Chu tên là Lai, ca tụng tổ tiên các đời đã phò tá các vua Chu từ Văn Vương, Võ Vương cho tới Lệ Vương. Hiện vật sưu tầm của Nhóm Nghiên cứu di sản văn hóa Đền miếu Việt.
    Chiếc bình Lang Liêu Img_6314-2
    Bình là đồ đựng rượu, phần miệng tròn hẹp, có nắp. Phần vai tròn rộng, có 2 tai quai hình đầu thú ngậm vòng. Phần thân tròn như hình trống, phần thân dưới có 1 tai quai hình đầu thú (trâu). Phần chân vành tròn. Phần nắp, phần vai và phần thân trên trang trí bằng các hoa văn chấm, vạch, xoáy, hoa văn trám lồng. Đặc biệt nhất là trên phần thân có đúc chìm tới 340 chữ chia thành 42 dòng xung quanh thân chiếc bình. 

    Bài văn trên chiếc Lôi tên Lai có tất cả 340 ký tự chữ Kim văn, đúc sâu, thư pháp đẹp. Tuy nhiên có 3 chữ bị quai đầu thú phần dưới che mất. 1 chữ Lai bị mất một nửa chữ ở vạch đoạn ghép phía dưới của thân bình. Thứ tự các dòng chữ không theo thông thường, mà một dòng ở bên này đọc tiếp sang một dòng ở phía đối diện. Do đó cần căn cứ theo minh văn trên chiếc Lai bàn, là vật cùng thời, cùng nội dung, để sắp xếp lại thứ tự các dòng chữ.
    Nội dung của bài minh do một người là Lai kể. Đầu tiên ca ngợi các vị tiên tổ của mình là các Ông (công), Bác (bá), Thúc (chú) và Cha (khảo) đã phò tá 10 đời các vua Chu từ Văn Vương, Võ Vương, Thành Vương, Khang Vương, Mục Vương, Cung Vương, Ý Vương, Hiếu Vương, Di Vương cho đến Lệ Vương.
    Lai là người phò tá cho Thiên tử đương thời, được giao nhiệm vụ cai quản cống phẩm các nơi, được vua ban cho các đồ màu đỏ và đen vàng để kết dây cho xe ngựa. Lai nhân đó tạo ra bảo vật này (chiếc Lôi) để kính chúc Thiên tử, tế hiếu tổ tiên, cầu phúc cho gia đình, bản thân và con cháu.
    Với số lượng chữ nhiều, nhiều hơn cả trên bảo vật có tiếng của Trung Quốc là Sử Tường bàn, đề cập đến 10 đời các vị vua của vương triều Chu, chiếc bình Lai là minh chứng lịch sử có giá trị cao đối với những ghi chép về thế thứ nhà Tây Chu trong phần Chu bản kỷ của Sử ký Tư Mã Thiên. Đồng thời đây cũng là minh chứng cho đạo thờ tổ tiên trong các dòng họ quý tộc xưa, của thời gian cách đây trên 2.800 năm.
    Giai đoạn Tây Chu của Trung Hoa tương ứng với thời kỳ Văn Lang từ khi Âu Cơ lập nước, Hùng Quốc Vương thắng Ân, phân phong chư hầu, đặt ra trăm quan. Nước Văn Lang trải qua các đời vua, gọi chung là các Lang Liêu, chỉ thủ lĩnh của người Liêu – Lão. Hiện vật của giai đoạn này trước trống đồng chính là những đồ đồng thời Tây Chu, đặc biệt là các đồ đồng có minh văn.
    Nguyên văn bài minh văn đó như sau:
    公考克明悊-?夾
    朕皇享祖公弔克逨
    幽明氒心夒遠能對
    王穆王趪趩政四方扑
    皇亞祖懿中殶諫克
    朕弔穆穆趪趩龢訇于政
    多賜逨休天子兑奠
    匍有四分則繇隹乃
    榮兑冢辭四方吳楚
    考寶尊般休享孝
    又逋彔永令會終逨
    文王武王逨敢寶考
    成王成受大令方惰狄
    召康王方懷不廷雩
    對荊雩朕皇高祖零
    保氒辟考王𢕌王又
    夕高朕用辟顯天子
    不顯文武隹受大令
    祖耆𤕌就乃令女足
    魯或冢用作用皇祖
    壽猶綰受余康無公

    Trong đó có 3 chữ bị phần quai dưới của bình đúc đè lên che mất.
    So sánh với bài minh văn trên chiếc mâm Lai (逨盤) cùng thời thì bài minh văn trên được sắp xếp và đọc như sau:
    Viết:
     Phi hiển trẫm Hoàng Cao tổ Đan Công khảo, khắc minh thận quyết đức, giáp Văn Vương Võ Vương, đạt Ân, ưng thụ thiên kỳ mệnh, bồ hữu tứ phương, tịnh quyết cận cương thổ, dụng phối thượng đế.
    Ư trẫm Hoàng Cao tổ Công Thúc, khắc lai Thành Vương, thành thụ đại mệnh, phương địch bất hưởng, dụng điện tứ quốc.
    Ư trẫm Hoàng Cao tổ Tân Thất Trung, khắc u minh quyết tâm,du viễn năng đối, triệu Khang Vương, phương hoài bất đình.
    Ư trẫm Hoàng Cao tổ Huệ Trung Lễ Phụ, hoà vu chính, hữu thành vu du, dụng hội Chiêu Vương, Mục Vương, hoàng hoàng chính tứ phương, phác đối Kinh.
    Ư trẫm Hoàng Cao tổ Linh Bá, lân minh quyết tâm, bất đọa phi dụng tịch Cung Vương, Ý Vương.
    Ư trẫm Hoàng Á TổÝ Trung Chú, gián khắc bảo quyết tịch Hiếu Vương, Di Vương, hữu thành vu Chu mệnh.
    Ư trẫm Hoàng Khảo Cung Thúc, mục mục hoàng hoàng, hòa hoanh (tuân/vận) vu chính, tế vu Lai thất, phục Lệ Vương.
    Lai tư toản trẫm Hoàng tổ khảo phục, kiền tịch cao, trẫm dụng tịch hiển Thiên tử, đa tứ Lai hưu,
    Thiên tử đoài điện vô cương, củ huệ thụ chính, điện Chu hoàng, gián tiếttứ phương.
    Vương nhược viết:
    Phi hiển Văn Võ, ưng thu đại mệnh, bồ hữu tứ phương, tắc chựu duy nãi thánh tổ khảo giáp triệu Tiên Vương, lỗ cận đại mệnh. Kim dư duy kinh nãi tiên tổ khảo, thân tựu nãi lệnh, nhữ tư vinh đoài, nhiếp tư tứ phương, Ngô Sở cung Lai, tứ nhữ xích khang, u hoàng du lặc.
    Lai cảm đối: Thiên tử phi lỗ hoặc nhiếp, dụng tác trẫm Hoàng tổ khảo bảo tôn ban, bảo hưởng hiếu tiền văn. Tiềnvăn chiêu phong tại thượng, hiển tại chính phong bột, tế Lai lỗ đa phúc, thọ do oản, thụ dư khang vô, công hữu, thông lộc, vĩnh mệnh, hội chung. Lai thần Thiên tử vương, Lai vĩnh dụng hưởng.
    (Những chữ gạch chân là những chữ đã được hiệu chỉnh)
    Dịch nghĩa bài minh văn:
    Rằng:
    Hiển hách quang vinh đức Cao tổ Đan Công của ta, có trí tuệ quang minh, đức sáng giúp Văn Vương, Võ Vương chinh phạt triều Ân, thừa mệnh lớn của trời, mở rộng bốn phương, an định lãnh thổ, kính thờ Thượng đế.
    Kìa đức Cao tổ Công Thúc của ta, phò giúp Thành Vương hoàn thành đại mệnh, đánh đuổi các bang tộc không phục tùng, yên định bốn phương các nước.
    Kìa đức Cao tổ Tân Thất Trung của ta, có tâm thâm trầm minh trí, khiến người xã gần đều thuận tòng, phù trợ Khang Vương thuần phục các bang tộc không vào triều.
    Kìa đức Cao tổ Huệ Trung Lễ Phụ của ta, yên hợp chính sự, mưu lược thành công, phụ tác Chiêu Vương, Mục Vương chinh phạt bốn phương, đánh dẹp đất Kinh.
    Kìa đức Cao tổ Linh Bá của ta, có tâm nhân từ sáng suốt, không dùng hình phép, phò tá Cung (Cộng) Vương, Ý Vương.
    Kìa đức Cao tổ Ý Trung Chú, là người chính trực, phụ bảo Khảo (Hiếu) Vương, Di Vương, giúp thành cho mệnh nhà Chu.
    Kìa phụ thân Cung Thúc, uy nghiêm rạng rỡ, hòa hợp đề cao chính sự, đem nhà Lai mà phụ tá Lệ Vương.
    Lai kế thừa phụ thân tổ khảo, cần mẫn ngày đêm phụ tá Thiên tử. Thiên tử ban thưởng hậu cho Lai. Lai chúc Thiên tử mãi mãi vững bền, giữ đức triều chính, giữ yên nhà Chu, chỉnh trị bốn phương.
    Vua lại nói:
    Hiển hách Văn Vương, Võ Vương, thừa thu mệnh trời, ban khắp bốn phương. Trước đây các bậc thánh tổ khảo nhà ngươi đã giúp phò các tiên vương, phát huy mệnh lớn. Nay noi gương các bậc tiên tổ, lệnh nhà ngươi giúp cho công việc, quản lý đồ tiến cống của bốn phương Ngô Sở. Ban cho ngươi các vật màu đỏ và đen vàng để chế cương xe ngựa.
    Lai cung kính xưng tụng Thiên tử vĩ đại hiển hách, bèn tạo tác ra vật đựng báu của các vị tổ khảo, giữ để dùng việc hiếu với tiên tổ. Tiên tổ mênh mang tại thượng, hiển linh mạnh mẽ, phù trì cho Lai được nhiều phúc, trường thọ, khỏe mạnh, có chức tước, có lộc, mệnh lâu dài, có kết cục tốt. Lai thần mong Thiên Tử, vương tôn. Lai mãi dùng vật này đế tế lễ.
    Chiếc bình Lang Liêu Img_6373-2
    Phần minh văn có tên 4 vị vua đầu Tây Chu: Văn Vương, Võ Vương, Thành Vương, Khang Vương


    Ý kiến của Văn Nhân 


     Căn cứ vào nội dung và kiểu văn tự của bài minh khắc trên chiếc bình  có thể xác đị̣nh  đây là hiện vật thời nhà Châu cụ́ thể là thời hay ngay sau thời Châu Lệ vương , khoảng 2900 - 2800  năm cách ngày nay .

    Sau quốc nhân bạo động Châu Lệ vương lánh về đất Trệ 14 năm rồi mất , sử thuyết Hùng Việt cho ‘Trệ’ cũng là ‘Trại’ , đất Trệ tức đất của người Trại rất có thể nay là vùng Thạch Trại sơn ở Vân Nam (là 1 trong 3 nơi phát tích  trống Đồng)  , Thạch Trại nghĩa là dòng người Trại phía Tây , liệu nhánh người Trại này có liên hệ gì với nhánh người Trại  vùng Thanh Nghệ Tĩnh Việt Nam ? ,  thời Trần phân biệt người Việt đồng bằng sông Hồng gọi là người Kinh , người vùng Thanh Nghệ Tĩnh đổ về Nam gọi là ngưởi Trại .

    Phải chăng chính sự liên hệ của dòng tộc người Trại ở Vân Nam và Việt Nam là sự giải thích cho sự việc chiếc Bình Lang Liêu và nhiều đồ đồng  qúi giá khác thời nhà Tây Châu và thời Cộng hoà được nhóm Đền miếu Việt tìm thấy trên đất Việt Nam ngày nay.

      Hôm nay: 9/5/2024, 12:57 pm