Sau dấu mốc lập quốc từ thị tộc tiến lên thành lập quốc gia , Thiên hạ còn 2 dâu mốc lịch sử quan trọng khác là mốc kiến lập vương quốc và thời điểm thất quốc ,con dân thành ₫ám nô lệ của Hung nô.
Sử Thiên hạ ghi nhận :Thời lập quốc với Hùng vũ vương tức vua Hùng , cũng là đế Minh hay Hoàng đế theo sử Trung hoa . vũ chỉ là biến âm của từ vua tiếng Việt , quốc danh Hữu Hùng quốc chỉ ra thời bản lề , khởi đầu là thị tộc , Hữu Hùng là họ Hùng sau là Hùng quốc nước của người họ Hùng , hữu là biến âm của họ , hương là biến âm của từ hàng , chuỗi biến đổi ngôn từ lúc còn còn ăn hang ở lỗ tới nay :hang hốc > hàng họ > hương hữu thật đơn giản .
Dấu mốc lịch sử quan trọng thứ 2 là thời vua Đại Vũ , giai đoạn bản lề từ quốc gia sơ khai tiến lên thành vương quốc ; đại vũ chỉ nghĩa là ‘vua lớn; là danh hiệu của vương tổ mọi triều đại vương quốc Thiên hạ không phải họ và tên , sử Trung hoa gọi ông là Hạ vũ vua kiến lập triều Hạ là không đúng , đế Khải mới là Hạ vũ người kiến lập vương triều Hạ .
Danh hiệu đế Khải đã không lột tả được ý nghĩa của thông tin mang trong bản thân nó , chính xác phải nói là đế Khởi tiếng Việt , khởi ở đây chỉ sự bắt đầu của vương quốc Thiên hạ tức triều đại đầu tiên sau giai đoạn bản lề thời ông vua Lớn Đại Vũ.
Dấu mốc lịch sử thứ 3 là thời điểm mất nước , Thiên hạ chìm đắm dưới móng ngựa rợ Hung nô.
Vương Mãn là từ người viết sử đời sau đặt ra chỉ thời mất nước , phiên thiết Hán văn cho vương mãn thiết ‘vãn’ ; vãn tiếng Việt nghĩa là chắm dứt , hết rồi tức vãn tuồng.
Tóm lại vương quốc Thiên hạ hay Hùng quốc mà nay người ta vẩn thường lầm lẫn gọi là Trung hoa đã khởi lập từ thời ĐẠI VŨ và chính thức là vương quốc thời đế Khởi nhà Hạ và diệt vong thời Vương Mãn - Vãn nhà Tân . Nhà Tân trong Hùng phả là Duệ lang , duệ là kéo dài ra ý nói sử Việt coi triều Tân là Hùng triều thứ 18 chỉ là thời gian ngắn ngủi kéo dài thêm thời đại Hung vương chút ít .
Thông tin giúp xác định thời họ Hùng mất nước trong tư liệu cổ chính là danh xưng ‘Lục lâm thảo khấu’ , Lục lâm thảo khấu xưa nay vẫn hiểu theo nghĩa là bọn trộm cướp núi Lục lâm 1 ngọn núi ở Hồ Bắc ngày nay thực ra lục lâm theo Dịch tượng của Dịch học nghĩa là Nam man , Lục lâm thảo khấu nghĩa chính xác là bọn trộm cướp nam man . phương Nam xưa nay lộn ngược gọi là Bắc , bản thân chữ Man chính xác là Mun tiếng Việt nghĩa là màu đen , đen ngược với hướng lửa - đỏ của Xích đạo ; nước - lửa , đen - đỏ , chính là Bắc - Nam theo quan niệm trời đất lưỡng lập của Dịch học , man - mun không có nghĩa là thấp hèn cao qúy gì cả như đám Tàu ô xuyên tạc xưa nay , cụm từ Lục lâm thảo khấu gói ghém lòng căm giận và sư khinh miệt bọn rợ ngoại nhân nổi loạn cướp nước , bọn thấp hèn dứt khoát không phải là lực lượng nổi dậy của quần chúng người Thiên hạ .
Luận điểm này được củng cố bởi 2 triều đại tiếp theo chép trong sử Trung quốc là những triều đại của người Hán ,2 vua sáng lập nhà nước Hán là Hán Canh thủy và Hán Quang vũ .
Tư liệu lịch sử Tàu viết rõ .... Lục lâm thảo khấu biến thành Hán quân sau khi giết vua Vương Mãng và chiếm được thủ đô nhà Tân , Hán quân tôn tướng cướp đầu lĩnh của chúng là Hán Canh thủy - Lưu Huyền và Hán Quang vũ - Lưu Tú lên làm vua lập ra 2 triều đại Hãn đầu tiên sau hãn quốc phù phép hoá ra Hán quốc từ đấy thế gian bỗng nhiên có tộc Hán nước Hán và văn minh Hán ..
Chẻ cụm từ Hán Quang vũ ra thu được nhiều thông tin xưa nay người Tàu dấu tịt:
Trong ngôn ngữ rợ phương Nam xưa nay là Bắc ‘Hãn’ nghĩa là chúa là kẻ cầm đầu , nước của Hãn là Hãn quốc , quân của hãn là hãn quân , hãn nổi tiếng nhất trong lịch sử là Thành cát tư hãn của Mông cổ . từ hãn phương tây kí âm La tinh là Khan ,đám viết sử Tàu thay bằng phiên thiết thành ra Khiết đan hay Kitan chữ Nho đơn âm đọc là Hán , Nước của hãn là hãn quốc danh từ chung tương đương với vương quốc sau biến ra Hán quốc . Hán quân tên riêng .
Hãn Quang vũ - Lưu Tú lên ngôi hoàng đế Đông Hán ở Hà Bắc , quang vũ là tên của đám cạo sử gia Tàu bịa ra sau này để dễ bề bẻ cong bẻ quẹo sử ; chính xác ra không có Quang vũ mà là Quan vũ , vũ là vua tiếng Việt , không có nước Quang chỉ có nước Quan , quan là nom nhìn chỉ hướng Nam- nom xưa ; quan vũ nghĩa là vua Nam man , ngày nay tiếng Bắc kinh còn gọi là Quan thoại đám Tàu ô hí hửng vênh váo gọi là tiếng nhà quan ...họ đâu biết Quan thoại chỉ nghĩa là tiếng nói bọn Nam man chứ quan quyền gì đâu.
Hán Quang vũ - Lưu Tú , họ Lưu chính xác ra là Liêu không phải Lưu đã chỉ ra ông ta là người nước Liêu ; nước Liêu sau cải là Khiết đan ở vùng Sơn Tây Hà Bắc là quốc gia hùng mạnh đối thủ ngang tầm của Tống quốc suốt bao năm trước khi bị người Kim diệt . Trung quốc ngày nay nhận Hà Bắc Sơn tây bờ Bắc Hoàng hà là cái nôi của nòi giống xem ra hoàn toàn chính xác , đích thị họ là rợ Hung nô phương Bắc tộc người đã xâm lăng vùi dập Thiên hạ , đánh cắp thành tựu văn minhThiên hạ và chuyện độc nhất vô nhị có trên thế gian là hoán đổi lịch sử cướp luôn tổ tiên người Thiên hạ biến lịch sử Thiên hạ thành ... Rợ ngũ Hồ sử . Chính thông tin lịch sử giai đoạn này chỉ ra đây dứt khoát không phải Hán sử mà là đoạn sử đánh tráo sách sử nước khác vì không có sử gia nào dám gọi đội quân đã hy sinh xương máu kiến tạo nên quốc gia mình là Lục lâm thảo khấu bọn cướp núi hèn hạ , gọi vua anh hùng công lao to lớn kiến lập nên Hán quốc là... 2 tướng cướp xấu xa .
Tóm lại lịch sử Trung quốc ngày nay là loại lịch sử lắp ghép quái gở , lấy sử của kẻ cướp nước nối và dòng sử của tộc người bị chúng cướp mất tổ quốc cứ như 1 pho sử liên tục lừa bịp mọi người . Sử thuyết Hùng Việt gọi đây là pho sử đầu rồng mình ngựa ....
Sử thuyết Hùng Việt ra đời chỉ cốt cho bàn dân Thiên hạ thấy Việt hay chính xác hơn Việt Nam không phải là dân tộc hèn kém , nước Việt Nam không phải là nhược tiểu quốc như bọn phù thủy hàng trăm năm nay vẫn ra sức rêu rao gieo tiếng xấu vào đầu óc người khác nhằm phủ mờ đi vầng hào quang sáng chói trên đầu những người mà chúng ghen tức xưa nay .
Cả Thiên hạ trừ những kẻ đui mù mới không rõ Dịch học là nền tảng của văn minh Á đông . Sách Văn minh Hùng việt mở ra cho nhân loại thấy trí tuệ người Việt nam chủ nhân của 2 siêu phẩm văn hóa là trống Đồng và Dịch học ; thành tựu văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam xóa tan rêu rao của đám ‘khoa học giả’. tròng mắt bé như hạt tiêu óc không bằng trái ổi dám cho người Việt là 1 trong 2 dân tộc cuối sổ chẳng đóng góp gì cho nền văn minh nhân loại .
Cái trò mập mờ đánh lận con Đen vừa ăn cướp vừa la làng sớm muộn gì cũng bị lật mặt lúc đó bọn vốn là đám đầu trộm đuôi cướp ăn nhờ ở đậu nền văn hóa văn minh Việt Nam hàng ngàn năm qua sẽ lộ nguyên bộ mặt xấu sa xem chúng còn dám vênh váo nhìn Thiên hạ nữa hay không.
Sử Thiên hạ ghi nhận :Thời lập quốc với Hùng vũ vương tức vua Hùng , cũng là đế Minh hay Hoàng đế theo sử Trung hoa . vũ chỉ là biến âm của từ vua tiếng Việt , quốc danh Hữu Hùng quốc chỉ ra thời bản lề , khởi đầu là thị tộc , Hữu Hùng là họ Hùng sau là Hùng quốc nước của người họ Hùng , hữu là biến âm của họ , hương là biến âm của từ hàng , chuỗi biến đổi ngôn từ lúc còn còn ăn hang ở lỗ tới nay :hang hốc > hàng họ > hương hữu thật đơn giản .
Dấu mốc lịch sử quan trọng thứ 2 là thời vua Đại Vũ , giai đoạn bản lề từ quốc gia sơ khai tiến lên thành vương quốc ; đại vũ chỉ nghĩa là ‘vua lớn; là danh hiệu của vương tổ mọi triều đại vương quốc Thiên hạ không phải họ và tên , sử Trung hoa gọi ông là Hạ vũ vua kiến lập triều Hạ là không đúng , đế Khải mới là Hạ vũ người kiến lập vương triều Hạ .
Danh hiệu đế Khải đã không lột tả được ý nghĩa của thông tin mang trong bản thân nó , chính xác phải nói là đế Khởi tiếng Việt , khởi ở đây chỉ sự bắt đầu của vương quốc Thiên hạ tức triều đại đầu tiên sau giai đoạn bản lề thời ông vua Lớn Đại Vũ.
Dấu mốc lịch sử thứ 3 là thời điểm mất nước , Thiên hạ chìm đắm dưới móng ngựa rợ Hung nô.
Vương Mãn là từ người viết sử đời sau đặt ra chỉ thời mất nước , phiên thiết Hán văn cho vương mãn thiết ‘vãn’ ; vãn tiếng Việt nghĩa là chắm dứt , hết rồi tức vãn tuồng.
Tóm lại vương quốc Thiên hạ hay Hùng quốc mà nay người ta vẩn thường lầm lẫn gọi là Trung hoa đã khởi lập từ thời ĐẠI VŨ và chính thức là vương quốc thời đế Khởi nhà Hạ và diệt vong thời Vương Mãn - Vãn nhà Tân . Nhà Tân trong Hùng phả là Duệ lang , duệ là kéo dài ra ý nói sử Việt coi triều Tân là Hùng triều thứ 18 chỉ là thời gian ngắn ngủi kéo dài thêm thời đại Hung vương chút ít .
Thông tin giúp xác định thời họ Hùng mất nước trong tư liệu cổ chính là danh xưng ‘Lục lâm thảo khấu’ , Lục lâm thảo khấu xưa nay vẫn hiểu theo nghĩa là bọn trộm cướp núi Lục lâm 1 ngọn núi ở Hồ Bắc ngày nay thực ra lục lâm theo Dịch tượng của Dịch học nghĩa là Nam man , Lục lâm thảo khấu nghĩa chính xác là bọn trộm cướp nam man . phương Nam xưa nay lộn ngược gọi là Bắc , bản thân chữ Man chính xác là Mun tiếng Việt nghĩa là màu đen , đen ngược với hướng lửa - đỏ của Xích đạo ; nước - lửa , đen - đỏ , chính là Bắc - Nam theo quan niệm trời đất lưỡng lập của Dịch học , man - mun không có nghĩa là thấp hèn cao qúy gì cả như đám Tàu ô xuyên tạc xưa nay , cụm từ Lục lâm thảo khấu gói ghém lòng căm giận và sư khinh miệt bọn rợ ngoại nhân nổi loạn cướp nước , bọn thấp hèn dứt khoát không phải là lực lượng nổi dậy của quần chúng người Thiên hạ .
Luận điểm này được củng cố bởi 2 triều đại tiếp theo chép trong sử Trung quốc là những triều đại của người Hán ,2 vua sáng lập nhà nước Hán là Hán Canh thủy và Hán Quang vũ .
Tư liệu lịch sử Tàu viết rõ .... Lục lâm thảo khấu biến thành Hán quân sau khi giết vua Vương Mãng và chiếm được thủ đô nhà Tân , Hán quân tôn tướng cướp đầu lĩnh của chúng là Hán Canh thủy - Lưu Huyền và Hán Quang vũ - Lưu Tú lên làm vua lập ra 2 triều đại Hãn đầu tiên sau hãn quốc phù phép hoá ra Hán quốc từ đấy thế gian bỗng nhiên có tộc Hán nước Hán và văn minh Hán ..
Chẻ cụm từ Hán Quang vũ ra thu được nhiều thông tin xưa nay người Tàu dấu tịt:
Trong ngôn ngữ rợ phương Nam xưa nay là Bắc ‘Hãn’ nghĩa là chúa là kẻ cầm đầu , nước của Hãn là Hãn quốc , quân của hãn là hãn quân , hãn nổi tiếng nhất trong lịch sử là Thành cát tư hãn của Mông cổ . từ hãn phương tây kí âm La tinh là Khan ,đám viết sử Tàu thay bằng phiên thiết thành ra Khiết đan hay Kitan chữ Nho đơn âm đọc là Hán , Nước của hãn là hãn quốc danh từ chung tương đương với vương quốc sau biến ra Hán quốc . Hán quân tên riêng .
Hãn Quang vũ - Lưu Tú lên ngôi hoàng đế Đông Hán ở Hà Bắc , quang vũ là tên của đám cạo sử gia Tàu bịa ra sau này để dễ bề bẻ cong bẻ quẹo sử ; chính xác ra không có Quang vũ mà là Quan vũ , vũ là vua tiếng Việt , không có nước Quang chỉ có nước Quan , quan là nom nhìn chỉ hướng Nam- nom xưa ; quan vũ nghĩa là vua Nam man , ngày nay tiếng Bắc kinh còn gọi là Quan thoại đám Tàu ô hí hửng vênh váo gọi là tiếng nhà quan ...họ đâu biết Quan thoại chỉ nghĩa là tiếng nói bọn Nam man chứ quan quyền gì đâu.
Hán Quang vũ - Lưu Tú , họ Lưu chính xác ra là Liêu không phải Lưu đã chỉ ra ông ta là người nước Liêu ; nước Liêu sau cải là Khiết đan ở vùng Sơn Tây Hà Bắc là quốc gia hùng mạnh đối thủ ngang tầm của Tống quốc suốt bao năm trước khi bị người Kim diệt . Trung quốc ngày nay nhận Hà Bắc Sơn tây bờ Bắc Hoàng hà là cái nôi của nòi giống xem ra hoàn toàn chính xác , đích thị họ là rợ Hung nô phương Bắc tộc người đã xâm lăng vùi dập Thiên hạ , đánh cắp thành tựu văn minhThiên hạ và chuyện độc nhất vô nhị có trên thế gian là hoán đổi lịch sử cướp luôn tổ tiên người Thiên hạ biến lịch sử Thiên hạ thành ... Rợ ngũ Hồ sử . Chính thông tin lịch sử giai đoạn này chỉ ra đây dứt khoát không phải Hán sử mà là đoạn sử đánh tráo sách sử nước khác vì không có sử gia nào dám gọi đội quân đã hy sinh xương máu kiến tạo nên quốc gia mình là Lục lâm thảo khấu bọn cướp núi hèn hạ , gọi vua anh hùng công lao to lớn kiến lập nên Hán quốc là... 2 tướng cướp xấu xa .
Tóm lại lịch sử Trung quốc ngày nay là loại lịch sử lắp ghép quái gở , lấy sử của kẻ cướp nước nối và dòng sử của tộc người bị chúng cướp mất tổ quốc cứ như 1 pho sử liên tục lừa bịp mọi người . Sử thuyết Hùng Việt gọi đây là pho sử đầu rồng mình ngựa ....
Sử thuyết Hùng Việt ra đời chỉ cốt cho bàn dân Thiên hạ thấy Việt hay chính xác hơn Việt Nam không phải là dân tộc hèn kém , nước Việt Nam không phải là nhược tiểu quốc như bọn phù thủy hàng trăm năm nay vẫn ra sức rêu rao gieo tiếng xấu vào đầu óc người khác nhằm phủ mờ đi vầng hào quang sáng chói trên đầu những người mà chúng ghen tức xưa nay .
Cả Thiên hạ trừ những kẻ đui mù mới không rõ Dịch học là nền tảng của văn minh Á đông . Sách Văn minh Hùng việt mở ra cho nhân loại thấy trí tuệ người Việt nam chủ nhân của 2 siêu phẩm văn hóa là trống Đồng và Dịch học ; thành tựu văn hóa vật thể và phi vật thể tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam xóa tan rêu rao của đám ‘khoa học giả’. tròng mắt bé như hạt tiêu óc không bằng trái ổi dám cho người Việt là 1 trong 2 dân tộc cuối sổ chẳng đóng góp gì cho nền văn minh nhân loại .
Cái trò mập mờ đánh lận con Đen vừa ăn cướp vừa la làng sớm muộn gì cũng bị lật mặt lúc đó bọn vốn là đám đầu trộm đuôi cướp ăn nhờ ở đậu nền văn hóa văn minh Việt Nam hàng ngàn năm qua sẽ lộ nguyên bộ mặt xấu sa xem chúng còn dám vênh váo nhìn Thiên hạ nữa hay không.