Bách Việt trùng cửu – nguồn THỤC AN DƯƠNG VƯƠNG TRUYỀN KỲ – Bách Việt trùng cửu (bahviet18.com)
Hồi III
Trăm anh em phân bình thiên hạ
Một Dịch kinh đúc kết trống đồng.
Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Vọng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.
Chu Công Đán là một trong những người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.
Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch.Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.Thời Thành Vương, có loạn giặc Vĩnh Trinh, là hậu duệ của Hùng Duệ Vương nổi lên. Cao Lỗ cất quân dẹp phản loạn, được gọi là Linh Lang đại vương. Đám quý tộc của Kinh triều trước đây được đem về an trí tại miền đất Lạc. Linh Lang đại vương là vị quân chủ đầu tiên gây dựng Lạc ấp nước Văn Lang.
Đại công thần tiếp theo là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).
Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cũng bắt đầu từ đó.
Thời kỳ này còn có chuyện Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.
Hồi III
Trăm anh em phân bình thiên hạ
Một Dịch kinh đúc kết trống đồng.
Sau cuộc Phong thần ở núi Vệ Linh, Thái Công Vọng trở về đất phong của mình là nước Tề, ở vùng ven biển Hồ. Cơ Phát lên ngôi xưng Thiên tử và dời lại kinh đô về đất Cảo ở Ai Lao (Âu – Vân Nam). Đất Âu với Cảo kinh là vùng phía Tây Văn Lang. Đất Lạc trở thành vùng đất phía Đông của nước Văn Lang.Các đại công thần lập quốc khác cùng đều được phân phong tương ứng theo công trạng. 2 đại thần lớn nhất lúc này là Chu Công Đán và Thiệu Công Thích.
Chu Công Đán là một trong những người em của Hùng Quốc Vương Cơ Phát. Ông được phong ở đất Lào (Lỗ) nhưng không về nước mà ở lại triều đình. Võ Vương mất, con trai lên ngôi là Chu Thành Vương, thì Cơ Đán được giữ chức Thái bảo, còn gọi là Lỗ quốc Thái sư, tức thần Cao Lỗ.
Cao Lỗ dùng chiếc “móng rùa” Dịch lý mà chế thành trấn bảo của nước Văn Lang là trống đồng. Ông là người đã phát triển Dịch học từ thời Lang Liêu Văn Vương, đặt ra các lời hào cho 64 quẻ của Kinh Dịch.Lỗ quốc lúc này bao gồm vùng đất hai bên bờ sông Mã, mà trung tâm của nó là vùng Thanh Hóa. Cao Lỗ được thờ ở đây dưới tên Đồng Cổ Sơn thần, nghĩa là vị thần tổ trống đồng (Sơn = tổ). Vùng đất trống đồng Đông Sơn chính là nước Lỗ của Chu Công.Thời Thành Vương, có loạn giặc Vĩnh Trinh, là hậu duệ của Hùng Duệ Vương nổi lên. Cao Lỗ cất quân dẹp phản loạn, được gọi là Linh Lang đại vương. Đám quý tộc của Kinh triều trước đây được đem về an trí tại miền đất Lạc. Linh Lang đại vương là vị quân chủ đầu tiên gây dựng Lạc ấp nước Văn Lang.
Đại công thần tiếp theo là Thiệu Công Thích, được phong ở đất Yên. Nước Yên nay ở quãng miền Trung Việt. Cũng như Chu Công Đán, Cơ Thích ở lại trong triều phụ giúp Chu Thành Vương, dẹp phản loạn. Ông làm đến chức Thái phó trong Thục triều. Nói về ông có điển tích cây “Cam đường bất phạt” lấy từ Kinh Thư thiên Thiệu Cáo, khi Thiệu Công dùng đạo trời khuyên vua hãy nhân từ mà tha cho dân đất Lạc (tức hậu duệ của Hùng Vương được an trí tại đây).
Tế lễ thời Hùng Vương
Người anh em khác trong bọc trăm trứng của Hùng Quốc Vương là Cơ Cao. Khi Hùng Quốc Vương phạt Đế Tân, Cơ Cao cầm búa nhỏ, Cơ Đán cầm búa lớn đi hộ vệ. Sau này Cơ Cao tiếp quản việc cai trị ở Lạc Ấp và có công ổn định được đám ngoan dân tại đây. Vì thế nên ông được phong là Tất Công (tất trong hoàn tất, lấy ý của thiên Tất Mệnh trong Kinh Thư). Cơ Cao là tổ của Phan tộc, đất phong ở Phù Nam. Ngày nay ông được thờ ở vùng Thị Cấm Xuân Canh tại Hà Nội với tên Phan Tây Nhạc.Trăm anh em của cùng một mẹ Âu Cơ đã chia nhau nơi đầu núi góc biển, an định Thiên hạ, đồng tôn Hùng Quốc Vương là Thiên tử. Chế độ phong kiến thị tộc phân quyền chính thức được khởi đầu. Các dòng họ người Việt cũng bắt đầu từ đó.
Trống đồng Hưng Yên
Thời kỳ này còn có chuyện Chu Mục Vương cưỡi xe bát mã lên núi Côn Lôn tìm cung điện của Hoàng Đế và gặp được Tây Vương Mẫu. Đó là chuyện Lang Liêu cầu tiên ở núi Tam Đảo và kết duyên với nàng Lăng Thị Tiêu, thần núi ở Tây Thiên.Nếp gấp phân phong, lễ nhạc của nước Văn Lang đã định hình văn hóa xã hội Việt, mãi đi vào chính sử nước nhà với tên Văn Lang – Âu Lạc của các vị vua Hùng, vua Thục.