Lưu Bang – Lý Bôn –Triệu Đà .
4 quận cực Nam nhà Tần
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đặt dấu hỏi :
Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được?.
Nước Nam Việt của Triệu Đà đô ở Phiên Ngung theo sự hiểu biết hiện có thì con cháu nhà Triệu phải là người Tày Thái Nùng mới đúng ...sao có thể là người Di Bạch ? hay là có 1 nước Nam Chiếu khác ?
Từ Chiếu – Triệu thực ra là từ ký âm Hán tự của chủ - chúa Việt ngữ ; Nam Chiếu đồng nghĩa với Nam đế , nước Nam Chiếu hay Nam chúa chỉ nghĩa là nước của chúa phương Nam như thế có thể có nhiều nước ‘Nam chúa’ không phải duy nhất là nước của tộc Di – Bạch do Bì La Cáp kiến lập ở Vân nam thời trung cổ .
Từ chìa khoá .... ‘người Di Bạch ở Vân Nam...’ ta mở cửa vào sử họ Hùng .
Sử Trung hoa chép :
Lưu Bang người đất Phong thuộc dòng dõi đế Nghiêu , thời Tần làm đình trưởng ở Tứ thượng , nhân việc ông bị huyện trưởng đất Bái giao cho dẫn phu đi lao dịch xây dựng cung thất cho vua Tần ở Ly sơn đã thả hết đám phu phen này và từ đó Lưu Bang cùng những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang Đãng gần đất Bái sống cuộc sống ngoài vòng pháp luật.
Phân tích đoạn sử trên theo chiều hướng mới của Sử thuyết Hùng Việt :
Đất Phong là đất cố cựu của người họ Hùng từ khi lập quốc ...vua Hùng đóng đô ở Phong châu ..., bà Trưng quê ở châu Phong ..., phong ở đây là gió tượng của quẻ Tốn trấn phía tây trong đồ hình Tiên thiên bát quái , trên thực địa đã xác định trong sử thuyết Hùng Việt Phong châu là vùng núi Tản sông Đà .(tản ↔ tốn=phong – gió).
Đế Nghiêu – ông Giao Thường – Đường vương chính là ông tổ của nhánh người họ Hùng ở miền Bắc Việt nam ngày nay nên đương nhiên là tổ của dòng tộc Lưu Bang đất Phong .
Lưu Bang người đất Phong nhưng khởi nghiệp ở núi Muang Đãng đất Bái ; Muang đích thị là từ Mường , ngày nay người tây phương vẫn ký âm Latinh y như thế , Bái là biến âm của Bạch – Bộc tên 1 tộc người , khoa học ngày nay gọi là tập đoàn người Bách Bộc ở Tây – Nam Trung hoa phân biệt với tập đoàn người ở vùng lãnh nam – giang Nam hoàn toàn vắng bóng cư dân ngữ hệ Tạng – Miến .
Vân Nam là địa bàn tập trung của người Bái - Bạch tiếng nói thuộc ngữ hệ Tạng Miến chính là đất Bái khởi nghiệp của Lưu Bang xưa .
Thông tin rất đặc biệt : Lưu Bang làm đình trưởng ở Tứ thượng ...
Tứ thượng thiết Tượng ;
Khám phá này chỉ ra điều quan trọng ... Lưu Bang làm đình trưởng ở Tượng quận ; Liên kết Thông tin : đất Bái - người Bạch và Tượng quận thì có thể kết luận : đất Vân nam ngày nay chính là Tượng quận xưa , ;khám phá này đã bác bỏ hoàn toàn ngụy thuyết của cả đống phù thủy Trung quốc mượn danh khoa học choTượng quân nhà Tần là đất Nam Quảng tây và Bắc Việt nam ngày nay ,Thay quậnTam xuyên bằng Tượng quận , còn Tượng quận thì đổi thành huyện Tượng Lâm...tất cả chỉ nhằm thủ tiêu thông tin về quận Tam xuyên mà Sử ký Tư mã thiên đã chép qúa rõ .... Tần lấy đất 2 nhà Châu lập quận Tam xuyên .Cũng Tư mã Thiên viết ....Lưu Bang đánh thủ phủ quận Tam xuyên là Ung thành giết chết thái thú Lý Do con của thừa tướng Lý Tư..., Ung thành cũng là Ung châu là thành phố Nam Ninh thủ phủ tỉnh Quảng Tây ngày nay ?.
Tới đây thì xem ra ...vẫn chưa thể giải thích thoả đáng cho sự việc đã nêu trong Lĩnh nam trích quái ... “Người Nam Chiếu là con cháu Vũ Đế Triệu Đà” do chưa thể xác định liên hệ giữa 2 nhân vật Lưu Bang và Triệu Đà hay nói khác đi là khẳng định được Lưu Bang là vua Nam Chiếu .
Xem xét 1 đoạn sử Việt :
Đại Việt sử ký toàn thư chép :Lý Bôn người làng Thái Bình, phủ Long Hưng, nay thuộc Sơn Tây (theo nhận định mới thì quê gốc của Lý Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay).
Nhà Lương - Hán quốc cai trị nước ta hết sức khắc nghiệt , Mùa xuân năm 542 Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái Bình.
Hào kiệt nhiều nơi hưởng ứng như ở Chu Diên có Triệu Túc và Triệu Quang Phục ; tại Thanh Trì có Phạm Tu; ở Thái Bình có Tinh Thiều ; Lý Phục Man ở Cổ Sở .
Chỉ sau 3 tháng nghĩa quân chiếm hầu hết các quận huyện , Quân Lương đại bại thứ sử Tiêu Tư bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc ,
Năm 544 Lý Bí lên ngôi Hoàng Đế sử gọi là Lý Nam Đế .Đặt tên nước là Vạn Xuân..Kinh đô ở sông Tô Lịch (Hà Nội).Niên hiệu là Thiên Đức.
Sử sách chép ... “Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy.”...
Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội quân với Phiêu ở Giang Tây.
Năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh – Phú Thọ, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương.
Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt Trần Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ.
Lý Nam Đế phải lui về động Khuất Lạo ủy thác cho Triệu Quang Phục điều quân chống đánh với đánh Bá Tiên.
Sau Lý Nam đế mất ở động Khuất Lão .
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu cho rằng : địa danh Thái Bình nơi Lý Bôn khởi nghiệp nếu dùng phép ‘phản – thiết’ Hán văn thì :
Thái Bình phản hay đảo vị thành ra Bình Thái và Bình thái thiết Bái ...như thế rõ ràng Thái bình chỉ là địa danh đẻ ra từ tên đất Bái mà thôi .
Lý Bôn người Sơn Tây ; sơn Tây cũng là vùng đất nằm ở phía Tây tức đất Phong .
Lý Bôn chạy vào đất của người ...Lão , đóng quân ở động ...Khuất Lão ;
Khuất Lão – Ngật Lão cũng là Di Lão – Lý Lão tất cả là tên gọi cộng đồng người Liêu hay Liêu tử ở Tây – Nam Trung hoa tức cùng địa bàn cư ngụ với người Bái – Bạch .
Rõ hơn hết là địa danh hồ Điển Triệt nơi Lý Bôn đóng 2 vạn quân thủy . Thực ra không hề có hồ Điển triệt ở gần Hà nội , Điển Triệt hay hồ Điển Triệt chỉ là ‘tam sao thất bản’ của Điền Trì tức cái ao ở đất Điền , ngày nay chính người Trung quốc vẫn sai đậm khi gọi là ‘hồ Điền trì’ ; 1 địa danh nổi tiếng của Vân Nam .
Như thế là cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn ở Giao chỉ lại có đủ các thông tin về đất Phong đất Bái cùng người và đất Vân Nam giống hệt như những thông tin liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lưu Bang bên Tàu vậy .
Về thân thế ...Lưu Bang còn gọi là Lưu Qúy vì ông là con trai thứ ba của Lưu Thái công ; Phải chăng vì cả cuộc đời vất vả nam chinh bắc chiến của Lưu Bang mà dân gian Việt có từ kép “Bôn Ba”; Bôn là Bang và Ba đích thị là Qúy ... ; Lưu Bang và Lý Bôn , khác nhau chỉ vì phương âm thực ra là 1 nhân vật lịch sử .
Xin lưu ý thông tin trong chính sử : Lý Bôn là vua nước Nam Việt .
Câu đối ở Quán Giang (Hoài Đức – Hà Nội), nơi thờ Lý Bôn, bắt đầu bằng: “Hồng duy Nam Việt triệu cơ...”.
Nhưng sao ... Sử ký, Tư Mã Thiên lại viết: "Vua Nam Việt họ Triệu tên là Ðà, người huyện Chân Ðịnh, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Ðà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận tự tôn làm "Nam Việt Vũ đế", đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa và nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc bắt họ lệ thuộc mình. Ðất đai của Ðà chiều ngang có hơn vạn đặm, Ðà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là "chế", chẳng kém gì Trung Quốc".
Lý Bôn lập nước Nam Việt xưng là Lý Nam Đế , Nam Đế là đồng nghĩa của Nam Chiếu cùng nghĩa là vua nước Nam Việt ; Triệu Đà - Triệu vũ đế cũng lập nước Nam Việt xưng là Nam Việt Vũ đế....lẽ nào Lý Bôn chính là Triệu Đà ???và Nam Chiếu cũng là nước của Lý Nam đế ???.
Đó chính là ý của nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu khi viết :
... Lý Bôn là vua nước Nam Việt. Nam Việt là nước do Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) lập nên, đô đóng ở Phiên Ngung (Quảng Đông). Như vậy Lý Bôn chính là Triệu Vũ Đế, là người Việt (Giao Chỉ) đầu tiên xưng đế, mở đầu một thời đại huy hoàng của sử Việt. Lý Nam Việt Đế là cách gọi theo kiểu sử Việt lấy họ vua và tên nước mà gọi. Triệu Vũ Đế là cách gọi của Hoa sử theo quốc danh và miếu hiệu của vua. Tuy 2 tên nhưng là một người.
Dựa trên danh xưng và sự đồng nhất về thông tin liên quan thì Lưu Bang trong sử Trung hoa và Lý Bôn của sử Việt chỉ là 1 nhân vật , mặt khác căn cứ vào sách sử thì Lý Bôn và Triệu Đà cũng là 1 nhân vật , là vua nước Nam Việt.
Đặc biệt về mặt niên đại lịch sử Lưu Bang và Triệu Đà cùng lên ngôi chúa khoảng năm 206 – 207 trước công nguyên.
Nối kết 3 luồng thông tin về Lưu Bang – Lý Bôn và Triệu vũ đế người viết xin được cùng nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đưa ra gỉa thuyết đột phá cho giai đoạn lịch sử nước Nam Việt đầy rắm rối và cũng rất mù mờ .
Sau khi Lữ hậu mất, đất nước do Lý Bôn gầy dựng chia làm 2 ; ở thành Phiên Ngung Lữ Gia tức nhà họ Lữ tôn con cháu Lý Bôn – Lưu Bang làm vua lập ra 1 triều đình Nam Việt khác coi như chính thức nối tiếp triều đại do Lý Bôn – Lưu Bang kiến lập tồn tại song song với triều đình nhà Hiếu ở Trường An , như thế đây là lần đầu tiên đất nước Trung hoa chia thành Nam và Bắc .
Triệu Đà - Triệu Vũ đế chỉ là tên gọi trong Việt sử của Lý Bôn – Lưu Bang người được Lữ Gia tôn là vua tổ nước Nam Việt đô Phiên Ngung tương tự như ông Khải tôn Đại Vũ là vua tổ nhà Hạ , Ninh vương tôn Văn vương là tổ nhà Châu , như thế Lý Bôn vừa là Hiếu Cao tổ của triều Hiếu Trung hoa (sử Tàu biến thành nhà Tây Hán) vừa là Triệu vũ đế tổ của nước Nam Việt .
Năm 111 trước công nguyên Hiếu Vũ đế đã phong Lộ bác Đức làm phục ba tướng quân đem quân đánh diệt Nam Việt của Vệ vương – Kiến đức và tể tướng Lữ Gia thống nhất giang sơn ; quy 2 dòng con cháu Lý Bôn – Lưu Bang về 1 mối , mở ra trang sử hiển hách rạng ngời của nhà Đại Hưng , Đại Hưng cùng với Đại Đường là 2 triều đại được người Trung Hoa mặc nhiên coi là đại diện cho lịch sử dân tộc ...chỉ tiếc 1 điều rất ít người biết :
Từ Hưng chỉ là 1 vế trong cặp từ lưỡng lập theo Dịch học :
‘hên – sui’ , ‘hơn – thua’ , ‘hưng – suy’ ...bị đám phù thủy chữ nghĩa biến thành cặp ‘Hán – Sở’ (tranh hùng) , từ đó Hưng →Hán , nước Hưng dân Hưng người Hưng con cháu các vua Hùng từ thời kiến lập Hữu Hùng quốc bỗng dưng biến thành Hãn quốc - nước của Hãn , Hãn dân – dân nước Hãn , Hãn nhân – người gọi chúa là Hãn ...
Kết : Lý Bôn – Lưu Bang và Triệu vũ đế chỉ là 1 nhân vật lịch sử và nước Nam chiếu chính là nước của Nam đế nên... Lĩnh nam trích quái viết : ... : “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”
Không biết đến bao giờ mọi người mới chấp nhận sự thật về nước Nam Việt và vua Nam chiếu này ? .
4 quận cực Nam nhà Tần
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đặt dấu hỏi :
Câu đầu tiên của Truyện Nam Chiếu khẳng định: “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”. Câu khẳng định này đúng là đánh đố người đọc ngày nay. Nam Chiếu được coi là quốc gia của người Di Bạch vùng Vân Nam, sao lại là con cháu Triệu Đà được?.
Nước Nam Việt của Triệu Đà đô ở Phiên Ngung theo sự hiểu biết hiện có thì con cháu nhà Triệu phải là người Tày Thái Nùng mới đúng ...sao có thể là người Di Bạch ? hay là có 1 nước Nam Chiếu khác ?
Từ Chiếu – Triệu thực ra là từ ký âm Hán tự của chủ - chúa Việt ngữ ; Nam Chiếu đồng nghĩa với Nam đế , nước Nam Chiếu hay Nam chúa chỉ nghĩa là nước của chúa phương Nam như thế có thể có nhiều nước ‘Nam chúa’ không phải duy nhất là nước của tộc Di – Bạch do Bì La Cáp kiến lập ở Vân nam thời trung cổ .
Từ chìa khoá .... ‘người Di Bạch ở Vân Nam...’ ta mở cửa vào sử họ Hùng .
Sử Trung hoa chép :
Lưu Bang người đất Phong thuộc dòng dõi đế Nghiêu , thời Tần làm đình trưởng ở Tứ thượng , nhân việc ông bị huyện trưởng đất Bái giao cho dẫn phu đi lao dịch xây dựng cung thất cho vua Tần ở Ly sơn đã thả hết đám phu phen này và từ đó Lưu Bang cùng những người theo ông lẩn trốn trên núi Mang Đãng gần đất Bái sống cuộc sống ngoài vòng pháp luật.
Phân tích đoạn sử trên theo chiều hướng mới của Sử thuyết Hùng Việt :
Đất Phong là đất cố cựu của người họ Hùng từ khi lập quốc ...vua Hùng đóng đô ở Phong châu ..., bà Trưng quê ở châu Phong ..., phong ở đây là gió tượng của quẻ Tốn trấn phía tây trong đồ hình Tiên thiên bát quái , trên thực địa đã xác định trong sử thuyết Hùng Việt Phong châu là vùng núi Tản sông Đà .(tản ↔ tốn=phong – gió).
Đế Nghiêu – ông Giao Thường – Đường vương chính là ông tổ của nhánh người họ Hùng ở miền Bắc Việt nam ngày nay nên đương nhiên là tổ của dòng tộc Lưu Bang đất Phong .
Lưu Bang người đất Phong nhưng khởi nghiệp ở núi Muang Đãng đất Bái ; Muang đích thị là từ Mường , ngày nay người tây phương vẫn ký âm Latinh y như thế , Bái là biến âm của Bạch – Bộc tên 1 tộc người , khoa học ngày nay gọi là tập đoàn người Bách Bộc ở Tây – Nam Trung hoa phân biệt với tập đoàn người ở vùng lãnh nam – giang Nam hoàn toàn vắng bóng cư dân ngữ hệ Tạng – Miến .
Vân Nam là địa bàn tập trung của người Bái - Bạch tiếng nói thuộc ngữ hệ Tạng Miến chính là đất Bái khởi nghiệp của Lưu Bang xưa .
Thông tin rất đặc biệt : Lưu Bang làm đình trưởng ở Tứ thượng ...
Tứ thượng thiết Tượng ;
Khám phá này chỉ ra điều quan trọng ... Lưu Bang làm đình trưởng ở Tượng quận ; Liên kết Thông tin : đất Bái - người Bạch và Tượng quận thì có thể kết luận : đất Vân nam ngày nay chính là Tượng quận xưa , ;khám phá này đã bác bỏ hoàn toàn ngụy thuyết của cả đống phù thủy Trung quốc mượn danh khoa học choTượng quân nhà Tần là đất Nam Quảng tây và Bắc Việt nam ngày nay ,Thay quậnTam xuyên bằng Tượng quận , còn Tượng quận thì đổi thành huyện Tượng Lâm...tất cả chỉ nhằm thủ tiêu thông tin về quận Tam xuyên mà Sử ký Tư mã thiên đã chép qúa rõ .... Tần lấy đất 2 nhà Châu lập quận Tam xuyên .Cũng Tư mã Thiên viết ....Lưu Bang đánh thủ phủ quận Tam xuyên là Ung thành giết chết thái thú Lý Do con của thừa tướng Lý Tư..., Ung thành cũng là Ung châu là thành phố Nam Ninh thủ phủ tỉnh Quảng Tây ngày nay ?.
Tới đây thì xem ra ...vẫn chưa thể giải thích thoả đáng cho sự việc đã nêu trong Lĩnh nam trích quái ... “Người Nam Chiếu là con cháu Vũ Đế Triệu Đà” do chưa thể xác định liên hệ giữa 2 nhân vật Lưu Bang và Triệu Đà hay nói khác đi là khẳng định được Lưu Bang là vua Nam Chiếu .
Xem xét 1 đoạn sử Việt :
Đại Việt sử ký toàn thư chép :Lý Bôn người làng Thái Bình, phủ Long Hưng, nay thuộc Sơn Tây (theo nhận định mới thì quê gốc của Lý Nam Đế thuộc địa bàn tỉnh Thái Nguyên ngày nay).
Nhà Lương - Hán quốc cai trị nước ta hết sức khắc nghiệt , Mùa xuân năm 542 Lý Bí phất cờ khởi nghĩa ở Thái Bình.
Hào kiệt nhiều nơi hưởng ứng như ở Chu Diên có Triệu Túc và Triệu Quang Phục ; tại Thanh Trì có Phạm Tu; ở Thái Bình có Tinh Thiều ; Lý Phục Man ở Cổ Sở .
Chỉ sau 3 tháng nghĩa quân chiếm hầu hết các quận huyện , Quân Lương đại bại thứ sử Tiêu Tư bỏ thành Long Biên chạy về Trung Quốc ,
Năm 544 Lý Bí lên ngôi Hoàng Đế sử gọi là Lý Nam Đế .Đặt tên nước là Vạn Xuân..Kinh đô ở sông Tô Lịch (Hà Nội).Niên hiệu là Thiên Đức.
Sử sách chép ... “Mùa xuân, tháng giêng, vua nhân thắng giặc, tự xưng là Nam Việt Đế, lên ngôi, đặt niên hiệu, lập trăm quan, dựng quốc hiệu là Vạn Xuân, ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy.”...
Năm 545, tháng 6, nhà Lương cho Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem quân xâm lấn, lại sai thứ sử Định Châu là Tiêu Bột hội quân với Phiêu ở Giang Tây.
Năm 546, Trần Bá Tiên đánh lấy được thành Gia Ninh – Phú Thọ, tướng Phạm Tu tử trận. Lý Nam Đế chạy vào đất người Lạo ở Tân Xương.
Sau một thời gian tập hợp và củng cố lực lượng, tháng 8, ông đem 2 vạn quân từ trong đất Lạo ra đóng ở hồ Điển Triệt Trần Bá Tiên đem quân theo dòng nước tiến trước vào. Quân Vạn Xuân không phòng bị, vì thế tan vỡ.
Lý Nam Đế phải lui về động Khuất Lạo ủy thác cho Triệu Quang Phục điều quân chống đánh với đánh Bá Tiên.
Sau Lý Nam đế mất ở động Khuất Lão .
Nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu cho rằng : địa danh Thái Bình nơi Lý Bôn khởi nghiệp nếu dùng phép ‘phản – thiết’ Hán văn thì :
Thái Bình phản hay đảo vị thành ra Bình Thái và Bình thái thiết Bái ...như thế rõ ràng Thái bình chỉ là địa danh đẻ ra từ tên đất Bái mà thôi .
Lý Bôn người Sơn Tây ; sơn Tây cũng là vùng đất nằm ở phía Tây tức đất Phong .
Lý Bôn chạy vào đất của người ...Lão , đóng quân ở động ...Khuất Lão ;
Khuất Lão – Ngật Lão cũng là Di Lão – Lý Lão tất cả là tên gọi cộng đồng người Liêu hay Liêu tử ở Tây – Nam Trung hoa tức cùng địa bàn cư ngụ với người Bái – Bạch .
Rõ hơn hết là địa danh hồ Điển Triệt nơi Lý Bôn đóng 2 vạn quân thủy . Thực ra không hề có hồ Điển triệt ở gần Hà nội , Điển Triệt hay hồ Điển Triệt chỉ là ‘tam sao thất bản’ của Điền Trì tức cái ao ở đất Điền , ngày nay chính người Trung quốc vẫn sai đậm khi gọi là ‘hồ Điền trì’ ; 1 địa danh nổi tiếng của Vân Nam .
Như thế là cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn ở Giao chỉ lại có đủ các thông tin về đất Phong đất Bái cùng người và đất Vân Nam giống hệt như những thông tin liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Lưu Bang bên Tàu vậy .
Về thân thế ...Lưu Bang còn gọi là Lưu Qúy vì ông là con trai thứ ba của Lưu Thái công ; Phải chăng vì cả cuộc đời vất vả nam chinh bắc chiến của Lưu Bang mà dân gian Việt có từ kép “Bôn Ba”; Bôn là Bang và Ba đích thị là Qúy ... ; Lưu Bang và Lý Bôn , khác nhau chỉ vì phương âm thực ra là 1 nhân vật lịch sử .
Xin lưu ý thông tin trong chính sử : Lý Bôn là vua nước Nam Việt .
Câu đối ở Quán Giang (Hoài Đức – Hà Nội), nơi thờ Lý Bôn, bắt đầu bằng: “Hồng duy Nam Việt triệu cơ...”.
Nhưng sao ... Sử ký, Tư Mã Thiên lại viết: "Vua Nam Việt họ Triệu tên là Ðà, người huyện Chân Ðịnh, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Ðà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận tự tôn làm "Nam Việt Vũ đế", đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa và nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc bắt họ lệ thuộc mình. Ðất đai của Ðà chiều ngang có hơn vạn đặm, Ðà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là "chế", chẳng kém gì Trung Quốc".
Lý Bôn lập nước Nam Việt xưng là Lý Nam Đế , Nam Đế là đồng nghĩa của Nam Chiếu cùng nghĩa là vua nước Nam Việt ; Triệu Đà - Triệu vũ đế cũng lập nước Nam Việt xưng là Nam Việt Vũ đế....lẽ nào Lý Bôn chính là Triệu Đà ???và Nam Chiếu cũng là nước của Lý Nam đế ???.
Đó chính là ý của nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu khi viết :
... Lý Bôn là vua nước Nam Việt. Nam Việt là nước do Triệu Đà (Triệu Vũ Đế) lập nên, đô đóng ở Phiên Ngung (Quảng Đông). Như vậy Lý Bôn chính là Triệu Vũ Đế, là người Việt (Giao Chỉ) đầu tiên xưng đế, mở đầu một thời đại huy hoàng của sử Việt. Lý Nam Việt Đế là cách gọi theo kiểu sử Việt lấy họ vua và tên nước mà gọi. Triệu Vũ Đế là cách gọi của Hoa sử theo quốc danh và miếu hiệu của vua. Tuy 2 tên nhưng là một người.
Dựa trên danh xưng và sự đồng nhất về thông tin liên quan thì Lưu Bang trong sử Trung hoa và Lý Bôn của sử Việt chỉ là 1 nhân vật , mặt khác căn cứ vào sách sử thì Lý Bôn và Triệu Đà cũng là 1 nhân vật , là vua nước Nam Việt.
Đặc biệt về mặt niên đại lịch sử Lưu Bang và Triệu Đà cùng lên ngôi chúa khoảng năm 206 – 207 trước công nguyên.
Nối kết 3 luồng thông tin về Lưu Bang – Lý Bôn và Triệu vũ đế người viết xin được cùng nhà nghiên cứu Bách Việt trùng cửu đưa ra gỉa thuyết đột phá cho giai đoạn lịch sử nước Nam Việt đầy rắm rối và cũng rất mù mờ .
Sau khi Lữ hậu mất, đất nước do Lý Bôn gầy dựng chia làm 2 ; ở thành Phiên Ngung Lữ Gia tức nhà họ Lữ tôn con cháu Lý Bôn – Lưu Bang làm vua lập ra 1 triều đình Nam Việt khác coi như chính thức nối tiếp triều đại do Lý Bôn – Lưu Bang kiến lập tồn tại song song với triều đình nhà Hiếu ở Trường An , như thế đây là lần đầu tiên đất nước Trung hoa chia thành Nam và Bắc .
Triệu Đà - Triệu Vũ đế chỉ là tên gọi trong Việt sử của Lý Bôn – Lưu Bang người được Lữ Gia tôn là vua tổ nước Nam Việt đô Phiên Ngung tương tự như ông Khải tôn Đại Vũ là vua tổ nhà Hạ , Ninh vương tôn Văn vương là tổ nhà Châu , như thế Lý Bôn vừa là Hiếu Cao tổ của triều Hiếu Trung hoa (sử Tàu biến thành nhà Tây Hán) vừa là Triệu vũ đế tổ của nước Nam Việt .
Năm 111 trước công nguyên Hiếu Vũ đế đã phong Lộ bác Đức làm phục ba tướng quân đem quân đánh diệt Nam Việt của Vệ vương – Kiến đức và tể tướng Lữ Gia thống nhất giang sơn ; quy 2 dòng con cháu Lý Bôn – Lưu Bang về 1 mối , mở ra trang sử hiển hách rạng ngời của nhà Đại Hưng , Đại Hưng cùng với Đại Đường là 2 triều đại được người Trung Hoa mặc nhiên coi là đại diện cho lịch sử dân tộc ...chỉ tiếc 1 điều rất ít người biết :
Từ Hưng chỉ là 1 vế trong cặp từ lưỡng lập theo Dịch học :
‘hên – sui’ , ‘hơn – thua’ , ‘hưng – suy’ ...bị đám phù thủy chữ nghĩa biến thành cặp ‘Hán – Sở’ (tranh hùng) , từ đó Hưng →Hán , nước Hưng dân Hưng người Hưng con cháu các vua Hùng từ thời kiến lập Hữu Hùng quốc bỗng dưng biến thành Hãn quốc - nước của Hãn , Hãn dân – dân nước Hãn , Hãn nhân – người gọi chúa là Hãn ...
Kết : Lý Bôn – Lưu Bang và Triệu vũ đế chỉ là 1 nhân vật lịch sử và nước Nam chiếu chính là nước của Nam đế nên... Lĩnh nam trích quái viết : ... : “Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà”
Không biết đến bao giờ mọi người mới chấp nhận sự thật về nước Nam Việt và vua Nam chiếu này ? .