Bách Việt trùng cửu - nguồn http://my.opera.com/bachviet18/blog/show.dml/59762222
Hai tướng nhà Triệu là Trương Hống Trương Hát không theo Hậu Lý Nam Đế, tự vẫn ở Phù Long. Một ngàn năm sau hai vị thần này lại hiển linh, đọc bài thơ Nam quốc sơn hà tuyên ngôn độc lập trước quân Tống bên dòng Như Nguyệt. Trương Hống từ đó được phong là Khước địch thiện hựu trợ thuận đại vương, Trương Hát là Uy địch dũng cảm hiển thắng đại vương.
Nhưng tại sao lại chính hai vị này đọc thơ khước Tống?
Lịch sử luôn lặp lại. Nam Việt Đế Lý Bôn khởi nghĩa chống Tần, thống nhất giang sơn Bách Việt. Tới khi Lữ Hậu mất, Lý và Triệu con cháu một nhà nhưng Nam Bắc phân đôi. Hậu Lý Nam Đế là Hiếu Vũ Đế diệt Triệu Vệ Dương Vương ở Dương Thành. Nhưng ở phía Tây Nam Việt lại nổi lên nhà Nam Triệu của Tây Lý Vương, tiếp tục chống lại phương Bắc.
Thời Ngũ đại, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn thống nhất miền Bắc Trung Hoa. Phía Nam nhà họ Lý (Lưu) lập nước Đại Việt – Đại Hưng trên mảnh đất Nam Việt của Triệu Việt Vương xưa. Quân Tống tấn công Phiên Ngung, Lưu Sưởng bị bắt. Nhưng ở phía Tây trên đất Tĩnh Hải, cũng con cháu họ Lý là thủ lĩnh Đinh Bộ lại lần nữa âm thầm phục quốc. Qua hai đời Tiết độ sứ tới Lý Thánh Tông thì chính thức xưng vương, lấy lại tên nước Đại Việt của cha ông họ Lý.
Chính vì sự lặp lại của lịch sử nên hai vị thánh Tam Giang đại diện cho tinh thần chống giặc phương Bắc của nước Nam Việt xưa mới hiển linh đọc bài thơ thần trên sông Như Nguyệt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm lược
Bạch phận phiên thành phá trúc dư.
Nước Việt gọi là “Nam quốc”, vua Việt là “Nam đế” chính là từ nước Nam Việt của Triệu Vũ Đế Lý Bôn. “Thiên thư” đây không phải Kinh Thư từ thời Chu. “Thiên thư” là sử sách thời Tần Hán, có thể chỉ … Sử ký Tư Mã Thiên, mà trong đó lịch sử thời Nam Việt của nhà Triệu đã được ghi chép đầy đủ.
Hoành phi Nam bang thủy đế ở đền Đồng Xâm
Triệu Vũ Đế là “Nam bang thủy đế” (hoành phi ở đền Đồng Xâm – Thái Bình), hay “Thiên Nam đế thủy” (hoành phi điện Long Hưng – Xuân Quan), là vị Nam đế đầu tiên của nước Nam. Con cháu họ Hùng bắt đầu phân Nam Bắc từ thời Nam Việt như câu đối của Nguyễn Công Trứ ở đền Đồng Xâm:
Một thời gươm ngựa khinh Lưu Hạng
Tự đó non sông tách Bắc Nam.
Gần đây nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên còn phát hiện tiền thân của bài thơ Nam quốc sơn hà ở đền Đào Xá (Thanh Thủy – Phú Thọ) như sau:
Nam thiên dĩ định đế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân
Thất quận sơn hà đô nhất thống
Tống binh bất miễn tán như vân.
Dịch:
Trời Nam đã định vua Nam ta
Đức lớn ngày thêm đức mới ra
Bẩy quận non sông về một mối
Tống binh tan tác tựa mây sa.
Đặc biệt bài thơ này nói tới “thất quận sơn hà”, nước non gồm 7 quận. Chế độ quận huyện ở nước ta đã bỏ từ Tùy Đường, thay bằng chế độ phiên trấn (Tiết độ sứ) ở thời Cao Biền. Bài thơ thời Lý nói tới 7 quận là thế nào?
Xem lại diễn biến nước Nam Việt, sau khi bị Hiếu Vũ Đế thu phục, được gọi là Giao Chỉ bộ, chia làm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô và Đam Nhĩ, Chu Nhai. Tới thời Sĩ Nhiếp Giao Chỉ bộ đổi thành Giao Châu, nhưng chỉ còn 7 quận (trừ Đam Nhĩ và Chu Nhai). Có lẽ 2 quận Đam Nhĩ và Chu Nhai đã bị mất vào tay Hán Quang Vũ, Sĩ Vương chỉ còn giữ được 7 trong số 9 quận của nước Nam Việt trước đó. Cái tên “thất quận” bắt đầu từ đó, chỉ Giao Châu bộ.
Câu đối ở đền Sĩ Nhiếp ở Tam Á (Thuận Thành – Bắc Ninh):
汶陽幾辰遷為軍將為州牧為教育師儒恩信遍蒼梧七郡外
龍编何日事此城郭此人民此江河運會文采傳武寧一部中
Vấn Dương kỉ thời thiên/ vi quân tướng, vi châu mục, vi giáo dục sư Nho/ ân tín biến Thương Ngô thất quận ngoại
Long Biên hà nhật sự/ thử thành quách, thử nhân dân, thử giang hà vận hội/ văn thái truyền Vũ Ninh nhất bộ trung.
Dịch:
Vấn Dương mấy lúc dời/ vì quân tướng, vì châu mục, vì giáo dục Nho gia/ bảy quận ngoài Thương Ngô ơn nghĩa trải khắp
Long Biên sự ngày nọ/ đây thành quách, đây nhân dân, đây non sông vận hội/ toàn bộ trong Vũ Ninh văn đức còn truyền.
Cổng đền Sĩ Nhiếp ở Tam Á
Trung tâm của quận Giao Chỉ đóng ở Long Biên. Nhà Hiếu (Tây Hán) không đóng trung tâm Giao Chỉ ở Phong Châu hay Cổ Loa có lẽ vì vùng phía Tây Giao Chỉ còn chưa yên ổn do con cháu nhà Triệu là Tây Lý Vương còn đang quấy rối. Một phần khác, Long Biên trở thành chốn trung tâm chính vì đây là vùng Tam Giang, Tam Xuyên hay Long Xuyên nơi Triệu Vũ Đế Lý Bôn khởi nghiệp.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng nổ ra ở 7 quận của Giao Châu này. Câu đối ở đền Hát Môn:
Cung kiếm thất tu mi, nữ chủ uy thanh lưu thất quận
Bình mông phổ bào dư, thần vương phúc tỉ vĩnh thiên thu.
Dịch:
Cung kiếm vượt nam nhi, nữ chủ uy danh lưu bảy quận
Che chở khắp đồng bào, thần vương phúc đức mãi nghìn năm.
Hai Bà Trưng toàn thắng, chiếm 65 thành ở Lĩnh Nam … Lẽ ra nếu khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra ngay sau khi nước Nam Việt của nhà Triệu bị mất thì “Lĩnh Nam” phải là toàn bộ vùng đất Nam Việt cũ, nghĩa là phải có tới 9 quận gồm cả Đam Nhĩ, Chu Nhai. Sự thật là khởi nghĩa Trưng Vương nổ ra sau thời Sĩ Nhiếp lập Giao Châu bộ, nên Lĩnh Nam lúc này chỉ còn 7 quận mà thôi.
Như vậy “thất quận” chính là vùng đất của nhà Nam Việt từ Triệu Vũ Đế. Bài thơ ở Đào Xá đã chỉ ra “Nam quốc” thực sự là gồm những vùng đất nào. Đồng thời bài thơ cũng cho thấy ý đồ của nhà Lý không chỉ giới hạn ở vùng Tĩnh Hải mà còn muốn phục quốc Đại Việt gồm 7 quận Lĩnh Nam. Thực tế thì Lý Thường Kiệt đã đánh vào châu Ung, châu Khâm, châu Liêm, mục đích rõ ràng là “thống nhất 7 quận” Nam Việt.
Câu đối ở đình Đông Xuyên (Yên Phong - Bắc Ninh) thờ Thánh Tam Giang:
Lưỡng mệnh khước Lý trưng, trung Triệu thanh phong phân đức thủy
Nhất thi tiêu Tống phạm, phù Lê hồng liệt đối hòa sơn
Dịch:
Một bài thơ phù Lê, tan Tống núi non nêu khí tiết
Hai anh em trung Triệu, chối Lý nước sông tỏa danh thơm.
Đình Đông Xuyên ở Yên Phong
Việc nhiều sử sách chép bài Nam quốc sơn hà được vang lên vào thời Tiền Lê nay cũng đã rõ. Lê Đại Hành là vị vua Lý ẩn họ. “Phù Lê” cũng là phù Lý. Tuy nhiên, khó có khả năng đã có một cuộc tấn công qui mô của nhà Tống vào thời Tiền Lê vì lúc này Lê Đại Hành – Lý Thái Tông vẫn còn nhận sắc phong của nhà Tống, chưa công khai lập quốc gia riêng. Với khẩu khí đòi độc lập “Nam quốc”, xưng “Nam đế”, thống nhất lại “thất quận” thì thời điểm đọc bài thơ này vào thời Lý Thường Kiệt (Lý Nhân Tông) là phù hợp hơn.
Phục quốc nước Nam thất quận luôn canh cánh trong các triều đại Việt sau này. Hoàng đế Quang Trung sau chiến thắng Đống Đa đuổi quân Thanh đã cử sứ giả đi đòi đất Lưỡng Quảng. Gia Long lên ngôi muốn đặt tên nước là Nam Việt…
“Nam quốc” đã đi vào tiềm thức người Việt như quốc danh của mình. Người Việt sẽ còn kể mãi chuyện “Nam đế” Lý Bôn, “Nam bang thủy đế” Triệu Vũ Đế như vị vua đầu tiên lập nước, phân Bắc Nam. Dòng sử nước Nam Việt đã mất đi phần Lưỡng Quảng, nhưng rồi lại thêm đất Nam Triệu – Lâm Ấp để nay trở thành nước Việt Nam độc lập.
Hai tướng nhà Triệu là Trương Hống Trương Hát không theo Hậu Lý Nam Đế, tự vẫn ở Phù Long. Một ngàn năm sau hai vị thần này lại hiển linh, đọc bài thơ Nam quốc sơn hà tuyên ngôn độc lập trước quân Tống bên dòng Như Nguyệt. Trương Hống từ đó được phong là Khước địch thiện hựu trợ thuận đại vương, Trương Hát là Uy địch dũng cảm hiển thắng đại vương.
Nhưng tại sao lại chính hai vị này đọc thơ khước Tống?
Lịch sử luôn lặp lại. Nam Việt Đế Lý Bôn khởi nghĩa chống Tần, thống nhất giang sơn Bách Việt. Tới khi Lữ Hậu mất, Lý và Triệu con cháu một nhà nhưng Nam Bắc phân đôi. Hậu Lý Nam Đế là Hiếu Vũ Đế diệt Triệu Vệ Dương Vương ở Dương Thành. Nhưng ở phía Tây Nam Việt lại nổi lên nhà Nam Triệu của Tây Lý Vương, tiếp tục chống lại phương Bắc.
Thời Ngũ đại, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn thống nhất miền Bắc Trung Hoa. Phía Nam nhà họ Lý (Lưu) lập nước Đại Việt – Đại Hưng trên mảnh đất Nam Việt của Triệu Việt Vương xưa. Quân Tống tấn công Phiên Ngung, Lưu Sưởng bị bắt. Nhưng ở phía Tây trên đất Tĩnh Hải, cũng con cháu họ Lý là thủ lĩnh Đinh Bộ lại lần nữa âm thầm phục quốc. Qua hai đời Tiết độ sứ tới Lý Thánh Tông thì chính thức xưng vương, lấy lại tên nước Đại Việt của cha ông họ Lý.
Chính vì sự lặp lại của lịch sử nên hai vị thánh Tam Giang đại diện cho tinh thần chống giặc phương Bắc của nước Nam Việt xưa mới hiển linh đọc bài thơ thần trên sông Như Nguyệt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm lược
Bạch phận phiên thành phá trúc dư.
Nước Việt gọi là “Nam quốc”, vua Việt là “Nam đế” chính là từ nước Nam Việt của Triệu Vũ Đế Lý Bôn. “Thiên thư” đây không phải Kinh Thư từ thời Chu. “Thiên thư” là sử sách thời Tần Hán, có thể chỉ … Sử ký Tư Mã Thiên, mà trong đó lịch sử thời Nam Việt của nhà Triệu đã được ghi chép đầy đủ.
Hoành phi Nam bang thủy đế ở đền Đồng Xâm
Triệu Vũ Đế là “Nam bang thủy đế” (hoành phi ở đền Đồng Xâm – Thái Bình), hay “Thiên Nam đế thủy” (hoành phi điện Long Hưng – Xuân Quan), là vị Nam đế đầu tiên của nước Nam. Con cháu họ Hùng bắt đầu phân Nam Bắc từ thời Nam Việt như câu đối của Nguyễn Công Trứ ở đền Đồng Xâm:
Một thời gươm ngựa khinh Lưu Hạng
Tự đó non sông tách Bắc Nam.
Gần đây nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên còn phát hiện tiền thân của bài thơ Nam quốc sơn hà ở đền Đào Xá (Thanh Thủy – Phú Thọ) như sau:
Nam thiên dĩ định đế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân
Thất quận sơn hà đô nhất thống
Tống binh bất miễn tán như vân.
Dịch:
Trời Nam đã định vua Nam ta
Đức lớn ngày thêm đức mới ra
Bẩy quận non sông về một mối
Tống binh tan tác tựa mây sa.
Đặc biệt bài thơ này nói tới “thất quận sơn hà”, nước non gồm 7 quận. Chế độ quận huyện ở nước ta đã bỏ từ Tùy Đường, thay bằng chế độ phiên trấn (Tiết độ sứ) ở thời Cao Biền. Bài thơ thời Lý nói tới 7 quận là thế nào?
Xem lại diễn biến nước Nam Việt, sau khi bị Hiếu Vũ Đế thu phục, được gọi là Giao Chỉ bộ, chia làm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô và Đam Nhĩ, Chu Nhai. Tới thời Sĩ Nhiếp Giao Chỉ bộ đổi thành Giao Châu, nhưng chỉ còn 7 quận (trừ Đam Nhĩ và Chu Nhai). Có lẽ 2 quận Đam Nhĩ và Chu Nhai đã bị mất vào tay Hán Quang Vũ, Sĩ Vương chỉ còn giữ được 7 trong số 9 quận của nước Nam Việt trước đó. Cái tên “thất quận” bắt đầu từ đó, chỉ Giao Châu bộ.
Câu đối ở đền Sĩ Nhiếp ở Tam Á (Thuận Thành – Bắc Ninh):
汶陽幾辰遷為軍將為州牧為教育師儒恩信遍蒼梧七郡外
龍编何日事此城郭此人民此江河運會文采傳武寧一部中
Vấn Dương kỉ thời thiên/ vi quân tướng, vi châu mục, vi giáo dục sư Nho/ ân tín biến Thương Ngô thất quận ngoại
Long Biên hà nhật sự/ thử thành quách, thử nhân dân, thử giang hà vận hội/ văn thái truyền Vũ Ninh nhất bộ trung.
Dịch:
Vấn Dương mấy lúc dời/ vì quân tướng, vì châu mục, vì giáo dục Nho gia/ bảy quận ngoài Thương Ngô ơn nghĩa trải khắp
Long Biên sự ngày nọ/ đây thành quách, đây nhân dân, đây non sông vận hội/ toàn bộ trong Vũ Ninh văn đức còn truyền.
Cổng đền Sĩ Nhiếp ở Tam Á
Trung tâm của quận Giao Chỉ đóng ở Long Biên. Nhà Hiếu (Tây Hán) không đóng trung tâm Giao Chỉ ở Phong Châu hay Cổ Loa có lẽ vì vùng phía Tây Giao Chỉ còn chưa yên ổn do con cháu nhà Triệu là Tây Lý Vương còn đang quấy rối. Một phần khác, Long Biên trở thành chốn trung tâm chính vì đây là vùng Tam Giang, Tam Xuyên hay Long Xuyên nơi Triệu Vũ Đế Lý Bôn khởi nghiệp.
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng cũng nổ ra ở 7 quận của Giao Châu này. Câu đối ở đền Hát Môn:
Cung kiếm thất tu mi, nữ chủ uy thanh lưu thất quận
Bình mông phổ bào dư, thần vương phúc tỉ vĩnh thiên thu.
Dịch:
Cung kiếm vượt nam nhi, nữ chủ uy danh lưu bảy quận
Che chở khắp đồng bào, thần vương phúc đức mãi nghìn năm.
Hai Bà Trưng toàn thắng, chiếm 65 thành ở Lĩnh Nam … Lẽ ra nếu khởi nghĩa Trưng Vương xảy ra ngay sau khi nước Nam Việt của nhà Triệu bị mất thì “Lĩnh Nam” phải là toàn bộ vùng đất Nam Việt cũ, nghĩa là phải có tới 9 quận gồm cả Đam Nhĩ, Chu Nhai. Sự thật là khởi nghĩa Trưng Vương nổ ra sau thời Sĩ Nhiếp lập Giao Châu bộ, nên Lĩnh Nam lúc này chỉ còn 7 quận mà thôi.
Như vậy “thất quận” chính là vùng đất của nhà Nam Việt từ Triệu Vũ Đế. Bài thơ ở Đào Xá đã chỉ ra “Nam quốc” thực sự là gồm những vùng đất nào. Đồng thời bài thơ cũng cho thấy ý đồ của nhà Lý không chỉ giới hạn ở vùng Tĩnh Hải mà còn muốn phục quốc Đại Việt gồm 7 quận Lĩnh Nam. Thực tế thì Lý Thường Kiệt đã đánh vào châu Ung, châu Khâm, châu Liêm, mục đích rõ ràng là “thống nhất 7 quận” Nam Việt.
Câu đối ở đình Đông Xuyên (Yên Phong - Bắc Ninh) thờ Thánh Tam Giang:
Lưỡng mệnh khước Lý trưng, trung Triệu thanh phong phân đức thủy
Nhất thi tiêu Tống phạm, phù Lê hồng liệt đối hòa sơn
Dịch:
Một bài thơ phù Lê, tan Tống núi non nêu khí tiết
Hai anh em trung Triệu, chối Lý nước sông tỏa danh thơm.
Đình Đông Xuyên ở Yên Phong
Việc nhiều sử sách chép bài Nam quốc sơn hà được vang lên vào thời Tiền Lê nay cũng đã rõ. Lê Đại Hành là vị vua Lý ẩn họ. “Phù Lê” cũng là phù Lý. Tuy nhiên, khó có khả năng đã có một cuộc tấn công qui mô của nhà Tống vào thời Tiền Lê vì lúc này Lê Đại Hành – Lý Thái Tông vẫn còn nhận sắc phong của nhà Tống, chưa công khai lập quốc gia riêng. Với khẩu khí đòi độc lập “Nam quốc”, xưng “Nam đế”, thống nhất lại “thất quận” thì thời điểm đọc bài thơ này vào thời Lý Thường Kiệt (Lý Nhân Tông) là phù hợp hơn.
Phục quốc nước Nam thất quận luôn canh cánh trong các triều đại Việt sau này. Hoàng đế Quang Trung sau chiến thắng Đống Đa đuổi quân Thanh đã cử sứ giả đi đòi đất Lưỡng Quảng. Gia Long lên ngôi muốn đặt tên nước là Nam Việt…
“Nam quốc” đã đi vào tiềm thức người Việt như quốc danh của mình. Người Việt sẽ còn kể mãi chuyện “Nam đế” Lý Bôn, “Nam bang thủy đế” Triệu Vũ Đế như vị vua đầu tiên lập nước, phân Bắc Nam. Dòng sử nước Nam Việt đã mất đi phần Lưỡng Quảng, nhưng rồi lại thêm đất Nam Triệu – Lâm Ấp để nay trở thành nước Việt Nam độc lập.