Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận.
Lãn Miên .
Nguồn: http://zh.wikipedia.org/wiki/說文解字
Trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, ở lời nói đầu ông viết có đoạn như sau. Ta hãy phân tích (phần viết trong ngoặc đơn) để thấy từ vựng Việt nhiều vô cùng, lặn sâu dưới số chữ nho ít hơn, mà về sau chữ nho ấy gọi là Hán tự.
Hứa Thận viết:
“Chu Lễ 《周礼》” qui định trẻ con 8 tuổi vào sơ đẳng học quán để học tập, được thầy dạy môn đầu tiên là “lục thư”. Tên gọi của lục thư gồm:
1.Thứ nhất gọi là “chỉ sự” tức chữ hình, nhìn kết cấu mà nhận ra nhưng cũng phải qua khảo sát mới biết được nghĩa mà chữ thể hiện, ví dụ chữ Thượng 上chữ Hạ 下 là kiểu chỉ sự .
(Trong Việt ngữ thì Trên=Lên=Lâng-Lâng=Nâng=Tâng =Tầng 層=Thăng 升=Thượng上=Ngưỡng 仰=Ngẩng=Ngược 逆; Xuống=Xuôi=Duỗi=Dưới=Giáng 降=Háng=Hạ 下. Hán ngữ phát âm chữ Thượng 上 là “sang” và chữ Hạ 下là “xia”).
2.Thứ hai gọi là “tượng hình” tức dùng cách vẽ miêu tả vật thể giống như tư thế của nó trong tự nhiên, ví dụ chữ Nhật 日chữ Nguyệt 月 là kiểu tượng hình.
(Trong Việt ngữ thì Blời=Trời=Giời=Chời=Chói=Rọi=Rực=Nhức=Nhật 日; Trăng=Thăng=Tháng=Sáng=Soi=Ngoi=Ngời=Nguyệt 月. Hán ngữ phát âm chữ Nhật 日là “rư” và chữ Nguyệt 月là “duê”)
3.Thứ ba gọi là “hình thanh” tức theo cách gọi và tính chất của sự vật mà chọn phù hiệu nghĩa và phù hiệu thanh tương ứng ghép lại thành một chữ, ví dụ chữ Giang 江 chữ Hà 河là kiểu hình thanh .
(Chữ Giang 江 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵,phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Công 工. Vậy chữ này phải đọc chính âm nguyên thủy của nó là Sông, vì trong Việt ngữ thì Krông=Sông=Ống=Cống=Dòng=Giang 江 . Vậy mà Hán ngữ lại đọc chữ Giang 江 ấy là “cheng” và chẳng có từ nào gốc ch… hay gốc…eng cùng mang khái niệm dòng nước với “cheng” cả. Chữ Hà 河 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵, phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Khả 可. Mà trong Việt ngữ thì Sông=Suối=Khuổi=Khe=Khê 溪 =Khả=Hà 河 =Hói=Ngòi=Xói=Moi=Mương=Máng, đều là khái niệm dòng nước. Nhưng chữ Hà 河 ấy Hán ngữ đọc là “hứa” và chẳng có từ nào gốc h… hay gốc …ứa chung mang khái niệm dòng nước với “hứa” cả)
4.Thứ tư gọi là “hội ý” tức chọn hai chữ (đồng âm) có liên quan sự lý cấu thành một chữ phối hợp ý nghĩa để dẫn ra được nghĩa của chữ mới, ví dụ chữ Vũ 武 chữ Tín 信 là kiểu “hội ý”.
(Chữ Vũ 武 phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Múa, là một thế võ mà người thực hiện phải Dựa vào cái khí cụ là cái Rựa để làm, Dựa=Rựa=Múa. Chữ Rìu=Rựa=Khua=Khoe=Khoa 夸 =Qua 戈 chính là cái Qua 戈 đồng đang được lấy làm khí cụ biểu diễn, Hán ngữ phát âm chữ Qua 戈 này là “Cưa”. Chữ Dựa=Dừng, con người ta phải dựa vào cái đang dừng chứ không thể dựa (lưng) vào cái đang chuyển động. Dựa=Dừng=Đừng=Đình 停 =Chĩnh=Tĩnh 靜 =Tưng-Hửng=Chựng=Chỉ 止 (Chĩnh Chọe=Tĩnh Tọa), Hán ngữ phát âm chữ Chỉ 止 này là “trử”. Hai chữ Dựa và Rựa “hội ý” thành chữ Múa. Người múa biểu diễn khí cụ Rìu ấy phải là người chủ xới, nên Múa=Khua=Chúa=Chủ 主 =Vũ=Võ 武, Hán ngữ phát âm chữ Võ 武 này là “Vủ”. ( Nếu theo phát âm của Hán ngữ thì hãy cứ so sánh chữ “cưa 戈”, chữ “trử 止”, chữ “vủ 武” xem chúng có dính líu logic gì với nhau không?) Từ Múa có trước, từ Võ có sau, nên người Việt mới nói là Múa Võ chứ không ai nói là võ múa. Chữ nho Võ 武ấy chính là chữ của người Việt. Nội một chữ Võ 武 được tạo ra bằng kiểu “hội ý” của chữ Dựa 止 và chữ Rựa 戈 ấy đã cho thấy rằng thời tiền sử, người Việt đã mang Rìu 戈 đi mở mang nông nghiệp đến khắp Trường Giang và Hoàng Hà, một vùng rộng liền khoảnh ở 18 tỉnh của TrungQuốc ngày nay, mà điển hình nhất là sự mở mang của nước Sở.
Chữ Tín phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Tôi, do “hội ý” của hai chữ đồng âm là chữ Người亻, Hán ngữ phát âm là “rấn”, và chữ Lời 言 , Hán ngữ phát âm là “yán”. Người=Lời=Tôi, dẫn ra nghĩa là Tôi=Tin=Tín 信, Hán ngữ phát âm là “xin”. Đã tin thì chỉ có tin người và tin lời, và tin thì chỉ có tin tôi là nhất chứ chẳng lẽ tôi lại tin người khác hơn là tin tôi. (So sánh ba âm Hán “rấn亻”, “yán 言” và “xin 信” xem có logic không?).)
5.Thứ năm gọi là “chuyển chú” tức lập một chữ làm đầu coi như gốc rồi sáng chế chữ loại thuộc có ý nghĩa tương đồng với chữ gốc, ví dụ chữ Khảo 考 chữ Lão 老 là kiểu “chuyển chú”.
(Trong Việt ngữ thì động tác xới đất để tìm kiếm là Cuốc=Cào=Khảo 考, nên chữ Khảo 考 có chữ gốc là bộ Thổ 土. Chữ Lão 老 cũng có chữ gốc là bộ Thổ 土, Tra=Già=Dão=Lão 老 =Lâu=Luôn=Lưu 留 =Cửu 久 =Cựu 旧 =Cũ=Cụ=Kỵ=Kỳ 耆).
6.Thứ sáu gọi là “giả tá” tức không tạo chữ cho vật hay việc cần diễn đạt mà mượn luôn chữ nào đó có sẵn đồng âm để đại diện cho nó, ví dụ chữ Lệnh 令 chữ Trưởng 长 là kiểu “giả tá”.
(Chữ Lệnh 令 là mượn âm chữ Làm của Việt ngữ, Làm=Lệnh=Lịnh (Làm ông, làm bà còn gọi là Lệnh Ông, Lệnh Bà, “làm cho nó sướng” tức “lệnh cho nó phải sướng”), Hán ngữ phát âm chữ Lệnh 令 là “ling”. Chữ Trưởng 长 nghĩa là lớn , mượn chữ Trường 长 nghĩa là dài, đồng âm. Trong Việt ngữ thì Nậy=Đẫy=Lẩy=Lớn=Nhớn=Tợn=Tướng 将 =Trưởng 长; Dài=Doãng=Loãng=Luồng=Truông=Trường 长).
Tóm lại là Hứa Thận soạn sách Thuyết Văn Giải Tự là để giúp cho người Hán đọc đúng âm chữ nho của người Việt như người Việt đọc. Chẳng thế mà trong sách đó có chữ Phiệt 伐( sau dùng trong từ ghép Chinh Phạt 征 伐 ) gồm “hội ý” bằng chữ Nhân亻 và chữ Qua 戈 mà lại đọc là Phiệt 伐, vậy chữ “Nhân” thành phần đó phải đọc là “Người Việt” thì chữ ấy mới đọc thành Phiệt 伐 được. Cũng trong sách đó Hứa Thận giải thích cách đọc chữ Việt 越 là: Vương 王 Phiệt 伐=(thiết)=Việt越, nghĩa là ông Vua 王 là Người亻 cầm Qua 戈 đi chinh Phạt 伐, đó chính là tộc Việt thời tiền sử. Hán ngữ phát âm chữ Việt 越 là “duê”, còn nếu theo phát âm của Hán mà đọc chữ Việt 越 theo qui tắc Hứa Thận hướng dẫn thì thành là “váng 王” “fá 伐”=(thiết)= “vá”. Cả hai âm “duê” và “vá” đều trật lấc với chữ Việt 越. Vậy chữ nho chỉ có thể là do người Việt làm ra đầu tiên.
Vậy mà sách “ Việt Nam minh sử” (NXB Lao Động, xuất bản quí 4 năm 2003) viết: “Cuộc tiếp xúc đầu tiên với nền văn minh miền nam Trung Hoa…đó là làn sóng đầu tiên của nền văn minh Trung Hoa ào ạt tiến vào nước ta. Trong số dân tị nạn này có những người biết chữ Nho. Họ dạy chữ ấy…sau này gọi là từ Hán Việt”. Sách “Văn minh Việt Nam” (NXB Hội nhà văn và Công ty văn hóa Phương Nam xuất bản quí 2 năm 2005) viết: “…ở nước Việt Nam thời kỳ đá mới cũng kéo dài đến một thời kỳ muộn, và chính ảnh hưởng khai hóa của Ấn Độ và Trung Hoa đã tác động đến các cư dân vừa mới ra khỏi đồ đá và mới bắt đầu sử dụng đồ đồng…Người Việt Nam hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã Hán hóa và chắc là lai giống nhiều”. Chán wá !
Lãn Miên .
Nguồn: http://zh.wikipedia.org/wiki/說文解字
Trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, ở lời nói đầu ông viết có đoạn như sau. Ta hãy phân tích (phần viết trong ngoặc đơn) để thấy từ vựng Việt nhiều vô cùng, lặn sâu dưới số chữ nho ít hơn, mà về sau chữ nho ấy gọi là Hán tự.
Hứa Thận viết:
“Chu Lễ 《周礼》” qui định trẻ con 8 tuổi vào sơ đẳng học quán để học tập, được thầy dạy môn đầu tiên là “lục thư”. Tên gọi của lục thư gồm:
1.Thứ nhất gọi là “chỉ sự” tức chữ hình, nhìn kết cấu mà nhận ra nhưng cũng phải qua khảo sát mới biết được nghĩa mà chữ thể hiện, ví dụ chữ Thượng 上chữ Hạ 下 là kiểu chỉ sự .
(Trong Việt ngữ thì Trên=Lên=Lâng-Lâng=Nâng=Tâng =Tầng 層=Thăng 升=Thượng上=Ngưỡng 仰=Ngẩng=Ngược 逆; Xuống=Xuôi=Duỗi=Dưới=Giáng 降=Háng=Hạ 下. Hán ngữ phát âm chữ Thượng 上 là “sang” và chữ Hạ 下là “xia”).
2.Thứ hai gọi là “tượng hình” tức dùng cách vẽ miêu tả vật thể giống như tư thế của nó trong tự nhiên, ví dụ chữ Nhật 日chữ Nguyệt 月 là kiểu tượng hình.
(Trong Việt ngữ thì Blời=Trời=Giời=Chời=Chói=Rọi=Rực=Nhức=Nhật 日; Trăng=Thăng=Tháng=Sáng=Soi=Ngoi=Ngời=Nguyệt 月. Hán ngữ phát âm chữ Nhật 日là “rư” và chữ Nguyệt 月là “duê”)
3.Thứ ba gọi là “hình thanh” tức theo cách gọi và tính chất của sự vật mà chọn phù hiệu nghĩa và phù hiệu thanh tương ứng ghép lại thành một chữ, ví dụ chữ Giang 江 chữ Hà 河là kiểu hình thanh .
(Chữ Giang 江 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵,phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Công 工. Vậy chữ này phải đọc chính âm nguyên thủy của nó là Sông, vì trong Việt ngữ thì Krông=Sông=Ống=Cống=Dòng=Giang 江 . Vậy mà Hán ngữ lại đọc chữ Giang 江 ấy là “cheng” và chẳng có từ nào gốc ch… hay gốc…eng cùng mang khái niệm dòng nước với “cheng” cả. Chữ Hà 河 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵, phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Khả 可. Mà trong Việt ngữ thì Sông=Suối=Khuổi=Khe=Khê 溪 =Khả=Hà 河 =Hói=Ngòi=Xói=Moi=Mương=Máng, đều là khái niệm dòng nước. Nhưng chữ Hà 河 ấy Hán ngữ đọc là “hứa” và chẳng có từ nào gốc h… hay gốc …ứa chung mang khái niệm dòng nước với “hứa” cả)
4.Thứ tư gọi là “hội ý” tức chọn hai chữ (đồng âm) có liên quan sự lý cấu thành một chữ phối hợp ý nghĩa để dẫn ra được nghĩa của chữ mới, ví dụ chữ Vũ 武 chữ Tín 信 là kiểu “hội ý”.
(Chữ Vũ 武 phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Múa, là một thế võ mà người thực hiện phải Dựa vào cái khí cụ là cái Rựa để làm, Dựa=Rựa=Múa. Chữ Rìu=Rựa=Khua=Khoe=Khoa 夸 =Qua 戈 chính là cái Qua 戈 đồng đang được lấy làm khí cụ biểu diễn, Hán ngữ phát âm chữ Qua 戈 này là “Cưa”. Chữ Dựa=Dừng, con người ta phải dựa vào cái đang dừng chứ không thể dựa (lưng) vào cái đang chuyển động. Dựa=Dừng=Đừng=Đình 停 =Chĩnh=Tĩnh 靜 =Tưng-Hửng=Chựng=Chỉ 止 (Chĩnh Chọe=Tĩnh Tọa), Hán ngữ phát âm chữ Chỉ 止 này là “trử”. Hai chữ Dựa và Rựa “hội ý” thành chữ Múa. Người múa biểu diễn khí cụ Rìu ấy phải là người chủ xới, nên Múa=Khua=Chúa=Chủ 主 =Vũ=Võ 武, Hán ngữ phát âm chữ Võ 武 này là “Vủ”. ( Nếu theo phát âm của Hán ngữ thì hãy cứ so sánh chữ “cưa 戈”, chữ “trử 止”, chữ “vủ 武” xem chúng có dính líu logic gì với nhau không?) Từ Múa có trước, từ Võ có sau, nên người Việt mới nói là Múa Võ chứ không ai nói là võ múa. Chữ nho Võ 武ấy chính là chữ của người Việt. Nội một chữ Võ 武 được tạo ra bằng kiểu “hội ý” của chữ Dựa 止 và chữ Rựa 戈 ấy đã cho thấy rằng thời tiền sử, người Việt đã mang Rìu 戈 đi mở mang nông nghiệp đến khắp Trường Giang và Hoàng Hà, một vùng rộng liền khoảnh ở 18 tỉnh của TrungQuốc ngày nay, mà điển hình nhất là sự mở mang của nước Sở.
Chữ Tín phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Tôi, do “hội ý” của hai chữ đồng âm là chữ Người亻, Hán ngữ phát âm là “rấn”, và chữ Lời 言 , Hán ngữ phát âm là “yán”. Người=Lời=Tôi, dẫn ra nghĩa là Tôi=Tin=Tín 信, Hán ngữ phát âm là “xin”. Đã tin thì chỉ có tin người và tin lời, và tin thì chỉ có tin tôi là nhất chứ chẳng lẽ tôi lại tin người khác hơn là tin tôi. (So sánh ba âm Hán “rấn亻”, “yán 言” và “xin 信” xem có logic không?).)
5.Thứ năm gọi là “chuyển chú” tức lập một chữ làm đầu coi như gốc rồi sáng chế chữ loại thuộc có ý nghĩa tương đồng với chữ gốc, ví dụ chữ Khảo 考 chữ Lão 老 là kiểu “chuyển chú”.
(Trong Việt ngữ thì động tác xới đất để tìm kiếm là Cuốc=Cào=Khảo 考, nên chữ Khảo 考 có chữ gốc là bộ Thổ 土. Chữ Lão 老 cũng có chữ gốc là bộ Thổ 土, Tra=Già=Dão=Lão 老 =Lâu=Luôn=Lưu 留 =Cửu 久 =Cựu 旧 =Cũ=Cụ=Kỵ=Kỳ 耆).
6.Thứ sáu gọi là “giả tá” tức không tạo chữ cho vật hay việc cần diễn đạt mà mượn luôn chữ nào đó có sẵn đồng âm để đại diện cho nó, ví dụ chữ Lệnh 令 chữ Trưởng 长 là kiểu “giả tá”.
(Chữ Lệnh 令 là mượn âm chữ Làm của Việt ngữ, Làm=Lệnh=Lịnh (Làm ông, làm bà còn gọi là Lệnh Ông, Lệnh Bà, “làm cho nó sướng” tức “lệnh cho nó phải sướng”), Hán ngữ phát âm chữ Lệnh 令 là “ling”. Chữ Trưởng 长 nghĩa là lớn , mượn chữ Trường 长 nghĩa là dài, đồng âm. Trong Việt ngữ thì Nậy=Đẫy=Lẩy=Lớn=Nhớn=Tợn=Tướng 将 =Trưởng 长; Dài=Doãng=Loãng=Luồng=Truông=Trường 长).
Tóm lại là Hứa Thận soạn sách Thuyết Văn Giải Tự là để giúp cho người Hán đọc đúng âm chữ nho của người Việt như người Việt đọc. Chẳng thế mà trong sách đó có chữ Phiệt 伐( sau dùng trong từ ghép Chinh Phạt 征 伐 ) gồm “hội ý” bằng chữ Nhân亻 và chữ Qua 戈 mà lại đọc là Phiệt 伐, vậy chữ “Nhân” thành phần đó phải đọc là “Người Việt” thì chữ ấy mới đọc thành Phiệt 伐 được. Cũng trong sách đó Hứa Thận giải thích cách đọc chữ Việt 越 là: Vương 王 Phiệt 伐=(thiết)=Việt越, nghĩa là ông Vua 王 là Người亻 cầm Qua 戈 đi chinh Phạt 伐, đó chính là tộc Việt thời tiền sử. Hán ngữ phát âm chữ Việt 越 là “duê”, còn nếu theo phát âm của Hán mà đọc chữ Việt 越 theo qui tắc Hứa Thận hướng dẫn thì thành là “váng 王” “fá 伐”=(thiết)= “vá”. Cả hai âm “duê” và “vá” đều trật lấc với chữ Việt 越. Vậy chữ nho chỉ có thể là do người Việt làm ra đầu tiên.
Vậy mà sách “ Việt Nam minh sử” (NXB Lao Động, xuất bản quí 4 năm 2003) viết: “Cuộc tiếp xúc đầu tiên với nền văn minh miền nam Trung Hoa…đó là làn sóng đầu tiên của nền văn minh Trung Hoa ào ạt tiến vào nước ta. Trong số dân tị nạn này có những người biết chữ Nho. Họ dạy chữ ấy…sau này gọi là từ Hán Việt”. Sách “Văn minh Việt Nam” (NXB Hội nhà văn và Công ty văn hóa Phương Nam xuất bản quí 2 năm 2005) viết: “…ở nước Việt Nam thời kỳ đá mới cũng kéo dài đến một thời kỳ muộn, và chính ảnh hưởng khai hóa của Ấn Độ và Trung Hoa đã tác động đến các cư dân vừa mới ra khỏi đồ đá và mới bắt đầu sử dụng đồ đồng…Người Việt Nam hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã Hán hóa và chắc là lai giống nhiều”. Chán wá !