Lĩnh nam trích quái chép :
…Thời Hiếu Vũ Đế, Thừa tướng của Triệu Đà là Lữ Gia không thần phục nhà Hiếu, giết sứ Hán là bọn An Quốc và Thiếu Quý. Hiếu Vũ sai Lộ Bác Đức và Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt được Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước , phân đất đặt quan cai trị.
Họ Triệu mất nước, con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau hội họp nhau ở phía Tây và Bắc Giao chỉ giết các quan lệnh của nước Đông hãn , xưng là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu …
Trích tộc phả họ Phạm Việt nam :
“Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp) tức là Nam Trung bộ ngày nay.
Xét Trên thực địa thì :
Đất Nam là Vùng Thanh Nghệ Tĩnh và miền Tây – Bắc Việt giáp giới với Vân nam tộc phả họ Phạm gọi là châu Ái thực ra là Ích châu thời Lý Bôn – Lưu Bang (Tây Hán) , đấy là đất của ông Bá Ích con ông Cao Dao chúa tộc người La – Lửa ở thời Đại Vũ . Sử Trung quốc cố ý làm rối tinh rối mù cho… Ích châu là Tứ xuyên rồi còn có thêm quận Ích châu là Vân nam ngày nay …
– Từ Bình trị Thiên suôi về phía nam gọi là châu Trung hay trong là xứ Hà của tộc Hời mà điểm cực bắc là Đồng Hới tức động Hời .
Tộc phả họ Phạm còn cho biết :
…Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”…
Sử thuyết Hùng Việt làm cho rõ thêm …
Lý Khu Kiên – Khu Đạt chính là Triệu quốc Đạt – Đạt vương – Đô Dương nổi lên chống quân Đông Hán cùng bà Triệu , sau Lâm ấp là đất của Lưu Biểu – Lý thiên bảo và Lý Bí – Lưu Bị còn gọi là Lý Phật Tử .
Nước Lâm ấp chính xác là nước có thủ đô là Lâm ấp ban đầu lập trên đất Tượng – Lâm , Tượng là tên quận thời Tần nay là Vân Nam , Lâm là tên tam sao thất bổn của Lam – Nam là Quảng Tây ngày nay . Sử Trung quốc gọi Lâm ấp là Tây Thục khiến mất hết thông tin Địa lý chứa trong địa danh , sau Không minh Gia cát Lượng hàng phục được Mạnh Hoạch thu đất Nam Hà tức quận Lang Gia thời Tần vào bản đồ nước Tây Thục .
Nước Tấn diệt Tây Thục thực ra chỉ chiếm được phần Tượng Lâm , phần Nam Hà tức đất cũ của thủ lãnh Mạnh Hoạch còn trong tay con cháu Lý khu Kiên vẫn là đất của người họ Hùng .
Bên nội họ Lý … Từ thông tin trong tộc phả họ Phạm Luận ra …đất NAM do dòng họ Lý con cháu Lý Thân hay Nguyễn Thân được tộc phả gọi là Lý Thành cai quản.
Đất HÀ do con cháu dòng bên ngoại Lý Khu kiên họ Phạm trấn giữ đại diện bởi Phạm duy Hinh tức Phạm Hùng .
2 bên Nội – Ngoaị hợp lại thành xứ NAM –HÀ chạy từ biên giới Vân nam tới Nha trang ngày nay (Phan rang là đất gốc của Phù nam – chân lạp).
Đối chiếu với sử liệu Đông Ngô thì Đất Nam là nước Minh Đường tức nước Mường – Xứ Mường, (minh đường thiết Mường), phần đất Hà tức Hời được gọi là nước Lâm ấp (của người Hời).
Lang gia quận đời Tần chính là vùng đất cổ sử dân gian thời hậu “Lưỡng quốc kháng giặc gỉa (Ngụy)” gọi là đất Nam – Hà do Lý Thành con cháu Lý Thân hay Nguyễn Thân và Phạm duy Hinh tức Phạm Hùng cháu dòng bên ngoại Khu Liên trấn giữ .
Theo phép phiên thiết Hán văn : Di hạ thiết da – dạ , đất Nam Hà thời Tần là quận lang Gia , bước chân đi từ Lang Gia tới Dạ lang ở Qúy châu là hành trình di cư đầy máu và nước mắt của dòng tộc La .
Cuộc chiến dành ngôi giữa ông Khải và ông Bá Ích chia đôi người trong thiên hạ thành ra Hoa hạ và Di hạ , ông Khải là chúa người Hoa hạ và ông bá Ích là chúa người Di hạ . Di hạ thiết Dạ nên lang gia cũng là lang di hạ – chúa Di hạ , đất lang gia cũng là đất gốc tổ của ông Ích nên còn gọi là Ích châu , trong tư liệu Việt biến âm thành Ái châu chính là nơi xuất phát cuộc di cư to lớn của tộc La . Sử chép sau 5 lần dừng chân ông Bá Ích dẫn dân mình tới định cư ở Kỳ sơn , chính tên gọi Dạ lang ở Qúy châu đã chỉ ra nơi đến của đoàn người theo chúa di cư , Dạ lang tức Di hạ lang cũng nghĩa là chúa Di hạ viết theo cấu trúc Hán văn , ở nơi đến này ông bá Ích được gọi bằng tên khác là Cổ công Đản phủ – thái vương của nhà Châu .
Tư liệu lịch sử Trung quốc gọi phần đất Hà trong Nam – Hà tức đất của người Hời là Lâm ấp mà không nói gì đến gốc gác nguyên thủy của nó , lịch sử bị cắt đọan gây ra không biết bao nhiêu lầm lẫn .
Nhờ thông tin của 2 tư liệu sưu dòng sử dân gian :
Phả ký họ Nguyễn (http://www.vietnamgiapha.com/XemPhaKy/78/pha_ky.html)
….TRIỆU ĐÀ (258-137 Tr.CN) có tên thực là Nguyễn Cẩn. Ông có dòng dõi là vua Hùng của Lạc Việt – con của Hùng Dực Công, Cháu của Hùng My Vương (Hùng vương thứ 18) …
Và Tác giả Bùi văn Nguyên trong nghiên cứu của mình cho biết Triệu Đà tên thật là Nguyễn Thân , (trùng tên với Lý Thân -Lý ông Trọng phò mã nhà Tần ?) …
Phần nào lịch sử nước Nam Việt của Vua Triệu Đà đã được gỡ rối . .
Việc xác định các ‘triệu’ tức chủ – chúa nước Nam Việt họ Lý là điều hết sức quan trọng đối với Việt sử ; Lý Thân hay Cẩn là tên của Triệu Mạt – chúa Một , sử hiện nay gọi là Triệu văn đế không phải là danh xưng của Triệu Đà – Triệu vũ đế vua tổ của nước Nam Việt , Triệu Đà là Lý Bôn sử Trung quốc cạo sửa thành ra…Lưu Bang .
Triệu Mạt – ‘chúa Một’ nước Nam Việt tên là Nguyễn Thân – Lý Thân khiến thông tin trong tộc phả họ Phạm và chuyện Nam chiếu Lĩnh Nam trích quái không còn là chuyện tầm phào , trái lại chính là thông tin lịch sử xác thực của trang sử Việt Nam chưa được viết .
…Thời Hiếu Vũ Đế, Thừa tướng của Triệu Đà là Lữ Gia không thần phục nhà Hiếu, giết sứ Hán là bọn An Quốc và Thiếu Quý. Hiếu Vũ sai Lộ Bác Đức và Dương Phác đem quân chinh phạt, bắt được Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia, thôn tính cả nước , phân đất đặt quan cai trị.
Họ Triệu mất nước, con cháu họ Triệu tản mát bốn phương, sau hội họp nhau ở phía Tây và Bắc Giao chỉ giết các quan lệnh của nước Đông hãn , xưng là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu …
Trích tộc phả họ Phạm Việt nam :
“Cuối đời Hùng Duệ Vương (258 trước CN) con trai trưởng của Phạm Duy Minh ở xứ Đằng Châu, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên ngày nay là Đại lang Phạm Duy Hinh cùng Lý Thành (con Lý Thân -Lý Ông Trọng) trấn thủ đất Nam Hà gồm 2 châu là ái châu (Bình Trị Thiên) và Trung châu ( gọi là xứ Lâm ấp) tức là Nam Trung bộ ngày nay.
Xét Trên thực địa thì :
Đất Nam là Vùng Thanh Nghệ Tĩnh và miền Tây – Bắc Việt giáp giới với Vân nam tộc phả họ Phạm gọi là châu Ái thực ra là Ích châu thời Lý Bôn – Lưu Bang (Tây Hán) , đấy là đất của ông Bá Ích con ông Cao Dao chúa tộc người La – Lửa ở thời Đại Vũ . Sử Trung quốc cố ý làm rối tinh rối mù cho… Ích châu là Tứ xuyên rồi còn có thêm quận Ích châu là Vân nam ngày nay …
– Từ Bình trị Thiên suôi về phía nam gọi là châu Trung hay trong là xứ Hà của tộc Hời mà điểm cực bắc là Đồng Hới tức động Hời .
Tộc phả họ Phạm còn cho biết :
…Sau khi Triệu Đà chống lại nhà Nam Hán, lập nên nước Nam Việt (207 trước CN) sáp nhập nước Âu Lạc vào Nam Việt và thu gom cả đất Nam Hà (xứ Lâm Ấp). Chỉ đến khi nhà Hán xâm chiếm lại Nam Việt, nhà Triệu bị diệt vong (111 trc CN) thì họ Lý xưng vương xứ Lâm Ấp. Mãi đến đời Lý Khu Kiên mất, họ Phạm kế vị với 19 đời vua trải qua gần 500 năm (140-605), đóng đô tại thành Châu Sa ( xã Tịnh Châu huyện Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).”…
Sử thuyết Hùng Việt làm cho rõ thêm …
Lý Khu Kiên – Khu Đạt chính là Triệu quốc Đạt – Đạt vương – Đô Dương nổi lên chống quân Đông Hán cùng bà Triệu , sau Lâm ấp là đất của Lưu Biểu – Lý thiên bảo và Lý Bí – Lưu Bị còn gọi là Lý Phật Tử .
Nước Lâm ấp chính xác là nước có thủ đô là Lâm ấp ban đầu lập trên đất Tượng – Lâm , Tượng là tên quận thời Tần nay là Vân Nam , Lâm là tên tam sao thất bổn của Lam – Nam là Quảng Tây ngày nay . Sử Trung quốc gọi Lâm ấp là Tây Thục khiến mất hết thông tin Địa lý chứa trong địa danh , sau Không minh Gia cát Lượng hàng phục được Mạnh Hoạch thu đất Nam Hà tức quận Lang Gia thời Tần vào bản đồ nước Tây Thục .
Nước Tấn diệt Tây Thục thực ra chỉ chiếm được phần Tượng Lâm , phần Nam Hà tức đất cũ của thủ lãnh Mạnh Hoạch còn trong tay con cháu Lý khu Kiên vẫn là đất của người họ Hùng .
Bên nội họ Lý … Từ thông tin trong tộc phả họ Phạm Luận ra …đất NAM do dòng họ Lý con cháu Lý Thân hay Nguyễn Thân được tộc phả gọi là Lý Thành cai quản.
Đất HÀ do con cháu dòng bên ngoại Lý Khu kiên họ Phạm trấn giữ đại diện bởi Phạm duy Hinh tức Phạm Hùng .
2 bên Nội – Ngoaị hợp lại thành xứ NAM –HÀ chạy từ biên giới Vân nam tới Nha trang ngày nay (Phan rang là đất gốc của Phù nam – chân lạp).
Đối chiếu với sử liệu Đông Ngô thì Đất Nam là nước Minh Đường tức nước Mường – Xứ Mường, (minh đường thiết Mường), phần đất Hà tức Hời được gọi là nước Lâm ấp (của người Hời).
Lang gia quận đời Tần chính là vùng đất cổ sử dân gian thời hậu “Lưỡng quốc kháng giặc gỉa (Ngụy)” gọi là đất Nam – Hà do Lý Thành con cháu Lý Thân hay Nguyễn Thân và Phạm duy Hinh tức Phạm Hùng cháu dòng bên ngoại Khu Liên trấn giữ .
Theo phép phiên thiết Hán văn : Di hạ thiết da – dạ , đất Nam Hà thời Tần là quận lang Gia , bước chân đi từ Lang Gia tới Dạ lang ở Qúy châu là hành trình di cư đầy máu và nước mắt của dòng tộc La .
Cuộc chiến dành ngôi giữa ông Khải và ông Bá Ích chia đôi người trong thiên hạ thành ra Hoa hạ và Di hạ , ông Khải là chúa người Hoa hạ và ông bá Ích là chúa người Di hạ . Di hạ thiết Dạ nên lang gia cũng là lang di hạ – chúa Di hạ , đất lang gia cũng là đất gốc tổ của ông Ích nên còn gọi là Ích châu , trong tư liệu Việt biến âm thành Ái châu chính là nơi xuất phát cuộc di cư to lớn của tộc La . Sử chép sau 5 lần dừng chân ông Bá Ích dẫn dân mình tới định cư ở Kỳ sơn , chính tên gọi Dạ lang ở Qúy châu đã chỉ ra nơi đến của đoàn người theo chúa di cư , Dạ lang tức Di hạ lang cũng nghĩa là chúa Di hạ viết theo cấu trúc Hán văn , ở nơi đến này ông bá Ích được gọi bằng tên khác là Cổ công Đản phủ – thái vương của nhà Châu .
Tư liệu lịch sử Trung quốc gọi phần đất Hà trong Nam – Hà tức đất của người Hời là Lâm ấp mà không nói gì đến gốc gác nguyên thủy của nó , lịch sử bị cắt đọan gây ra không biết bao nhiêu lầm lẫn .
Nhờ thông tin của 2 tư liệu sưu dòng sử dân gian :
Phả ký họ Nguyễn (http://www.vietnamgiapha.com/XemPhaKy/78/pha_ky.html)
….TRIỆU ĐÀ (258-137 Tr.CN) có tên thực là Nguyễn Cẩn. Ông có dòng dõi là vua Hùng của Lạc Việt – con của Hùng Dực Công, Cháu của Hùng My Vương (Hùng vương thứ 18) …
Và Tác giả Bùi văn Nguyên trong nghiên cứu của mình cho biết Triệu Đà tên thật là Nguyễn Thân , (trùng tên với Lý Thân -Lý ông Trọng phò mã nhà Tần ?) …
Phần nào lịch sử nước Nam Việt của Vua Triệu Đà đã được gỡ rối . .
Việc xác định các ‘triệu’ tức chủ – chúa nước Nam Việt họ Lý là điều hết sức quan trọng đối với Việt sử ; Lý Thân hay Cẩn là tên của Triệu Mạt – chúa Một , sử hiện nay gọi là Triệu văn đế không phải là danh xưng của Triệu Đà – Triệu vũ đế vua tổ của nước Nam Việt , Triệu Đà là Lý Bôn sử Trung quốc cạo sửa thành ra…Lưu Bang .
Triệu Mạt – ‘chúa Một’ nước Nam Việt tên là Nguyễn Thân – Lý Thân khiến thông tin trong tộc phả họ Phạm và chuyện Nam chiếu Lĩnh Nam trích quái không còn là chuyện tầm phào , trái lại chính là thông tin lịch sử xác thực của trang sử Việt Nam chưa được viết .
Được sửa bởi Admin ngày 28/3/2020, 8:50 am; sửa lần 3.