Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

» Vài hàng ...nhân ngày giỗ quốc tổ .
by Admin Yesterday at 11:54 am

» Đầu non
by Admin 28/3/2024, 9:39 am

» Trời xanh -mây trắng -núi hồng (hình chụp ở Mĩ)
by Admin 22/3/2024, 2:26 pm

» Thời Bắc thuộc (viết lại)
by Admin 20/3/2024, 1:36 pm

» Lẩn thẩn ...Tiền Hậu , Đông Tây ...không thể nối .
by Admin 13/3/2024, 11:09 am

» Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác .
by Admin 1/3/2024, 4:52 pm

» Suy nghĩ về cặp đôi Nam – Nữ
by Admin 24/2/2024, 4:58 pm

» 2 chuyện cần bàn thêm
by Admin 23/2/2024, 2:39 pm

» Sử Việt 2 chuyện cần bàn .
by Admin 22/2/2024, 11:49 am

» Cẩn thận Chữ với nghĩa
by Admin 13/2/2024, 2:59 pm

Gallery


An nam – Việt nam TT Empty

April 2024

MonTueWedThuFriSatSun
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     

Calendar Calendar

Khách thăm



An nam – Việt nam TT Flags_1



    An nam – Việt nam TT

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1186
    Join date : 31/01/2008

    An nam – Việt nam TT Empty An nam – Việt nam TT

    Bài gửi by Admin 4/7/2015, 1:14 pm

    Xét trường hợp điển hình của quan hệ Đại Việt và Tống quốc :

    Vua Tống đã phong tước – ban phẩm hàm và bổ nhiệm Lí công Uẩn lần lượt vào các chức vụ :

    - 1010: Phong Lý Thái Tổ chức Kiểm hiệu thái phó, Tỉnh hải tiết độ sứ ,quan sát sứ, xử trí sứ, An Nam đô hộ, Ngư sử đại phu Thượng trụ quốc giao chỉ quận vương.
    Sau thêm Đồng bình chương sự.
    - 1012: Phong thêm: Khai phủ nghị đồng tam ti.
    - 1014: Phong thêm Bảo Tiết Thủ Chính công thần.
    - 1018: Phong thêm: Kiểm hiệu thái uý.
    - 1022: Phong thêm Kiểm hiệu Thái sư.
    - 1028: Phong thêm Thị Trung  Nam Việt vương.
    (Trích bài của ThS Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Khoa Việt Nam học, ĐHSPHà Nội

    Đăng trên internet).

    Dựa vào quan chế nhà Tống  Phân tích  đống lộn sộn này ...
    Để nắm rõ phải xếp các chức tước đã phong này vào vào 3 lãnh vực khác nhau :

     

    *Tước hiệu :
    Năm 1010 phong Giao chỉ quận vương

    Năm  1028  phong Nam Việt vương.
    Về địa lí hành chánh xét theo dòng lịch sử thì Giao chỉ là vùng bắc và bắc trung Việt còn Nam Việt  chỉ lãnh thổ nước Nam Việt của Triệu Đà xưa tức miền đất Giao chỉ – Quảng Tây – Quảng Đông .
    Trước vua Tống phong Lí công Uẩn là Giao chỉ quận vương sau phong là Nam Việt vương thì đúng là nâng cấp nhưng là nâng từ quận vương lên hàng vương trong phẩm trật qúy tộc , quận vương là 1 tước qúy tộc thấp hơn tước vương , Giao chỉ quận vương là 1 tước hiệu không phải là lúc này đang có 1 quận tên Giao chỉ và Lí công Uẩn là vua quận ấy như thường hiểu sai trước đây , Lí công Uẩn là người Giao chỉ nên vua Tống ban tước hiệu qúy tộc là Giao chỉ [quận vương] , Tương tự Giao chỉ nằm trong Nam Việt nên sử liệu của Tàu chép ...sau ông được nâng lên hàng vương  tước hiệu là Nam Việt vương cũng không có nghĩa là vua vùng Nam Việt gồm Giao châu – Quảng Tây – Quảng Đông .
     

    *Chức quan :
    Kiểm hiệu Thái phó , kiểm hiệu thái sư là quan cấp cực cao hàng nhất phẩm  nhưng là hư hàm không có quyền hành gì và thường mang những chức danh vô thưởng vô phạt như trợ lí hay cố vấn của vua .v.v.
    Quan sát sứ  xử trí sứ ; Sứ là chức quan khá cao thường ở hàng tam phẩm  là quan ngạch trung ương được cử về địa phương thực thi 1 nhiệm vụ nhất định .
    Ngự sử đại phu là quan của ngự sử đài hàng tam phẩm
    Nghị đồng tam ti là quan của Tam ti hàm tam phẩm
    Đồng bình chương sự là chức quan rất cao chỉ đứng sau tể tướng trong Tể chấp tức chính phủ ngày nay , phẩm hàm vào hàng nhị phẩm .
     

    *Phần quan trọng chỉ rõ vị trí thực của nhân vật trong guồng máy cai trị là chức vụ :
    Chức vụ thực sự nắm quyền ở 1 vùng của Lí công Uẩn là :Tĩnh hải quân tiết độ sứ và An nam đô hộ , caí sai xưa nay là  đồng nhất Giao chỉ và An nam .
    Tiết độ sứ là quan được vua ban cờ tiết toàn quyền cả quân và dân sự ở 1 quân (đơn vị hành chánh) , Tĩnh hải quân lập thời Cao Biền nhà Đường  trên đất Phong châu và Giao chỉ , trước đó nhà Tùy gọi là Giao châu , nếu tư liệu trích dẫn đúng sự thực điều này chỉ ra : dưới mắt vua quan nhà Tống Giao chỉ - phong châu là vùng nội thuộc y như thời Tùy Đường .
    Thời Đường phía Nam nay Giao chỉ là đất của các lãnh chúa tộc Cơ và tộc Mi quy phục nhà Đường được hưởng quy chế tự trị , cơ quan của chính quyền trung ương xử lí công việc trên phần đất tự trị này là An nam Đô hộ phủ do quan An Nam đô hộ đứng đầu . An nam đô hộ phủ đóng trên đất Giao chỉ nhưng lo việc ở phía Nam ngoài Giao chỉ , do chỉ là 1 cơ quan nên thời Đường cũng có lúc dời về đóng ở Quảng Tây ngày nay .
     Lầm lẫn tai hại xưa nay coi An Nam chính là tên gọi khác của Giao chỉ . Thử hỏi Nếu An nam và Giao chỉ là một thì đã thuộc chức trách quản trị của Tĩnh hải quân tiết độ sứ rồi còn đặt thêm quan An nam đô hộ làm cái gì ?.
    Nhà Tống phong Lí công Uẩn làm Giao chỉ quận vương , Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm An nam đô hộ tức đứng đầu An nam đô hộ phủ ; Giao chỉ Quận vương là tước hiệu còn lại muốn rõ nghĩa phải nhấn mạnh chữ ‘kiêm’;  Tiết độ sứ và quan đô hộ là 2 chức trách hoàn toàn khác nhau do cùng 1 người kiêm trách , xét  về mặt địa lí hành chánh thì rõ ràng Tĩnh hải quân và An nam là 2 vùng đất khác nhau thuộc về 2 quy chế quản lí nội ngoại thuộc khác nhau không thể lẫn lộn được . Tiết độ sứ là quan rất to do triều đình trung ương bổ nhiệm để cai quản 1quân là đơn vị hành chánh nội thuộc  còn quan đô hộ lo việc bảo hộ vùng  ‘ràng buộc lỏng lẻo’ của các lãnh chúa địa phương quy phục triều đình tức vùng tự trị .
    Sách sử chép sự việc không thể hiểu là :
    - 1138: nhà Tống Phong vua Lý Anh Tông làm Giao chỉ quận vương.
    - Năm Giáp Thân (1164), vua Tống sai sứ sang đổi tên nước ta từ Giao Chỉ quận thành An Nam quốc. Vua Anh Tông được phong An Nam quốc vương.
    Thời Tống liệu có quận Giao chỉ ở Bắc và Bắc Trung Việt ngày nay hay không ?, như trên đã nói Giao chỉ quận vương là 1 tước hiệu không phải 1tước vị , xét thời nước Đại Việt - đại Hưng đô ở thành Phiên Ngu về mặt địa lí hành chánh đã được tổ chức lại trên khuôn khổ đất đai Tĩnh hải và Thanh hải quân thời Đường cũ ...Giao chỉ chỉ còn là 1 huyện ở miền đồng bằng sông Hồng làm gì có Giao chỉ quận nào để nhà Tống đổi thành An nam quốc ?.
    Cứ theo sử liệu dẫn trên thì Thời nhà Đinh nhà Lí liệu có nước Đại cồ Việt – Đại Việt hay không ? ,vì Giao chỉ lúc này là Tĩnh hải  quân tức đơn vị hành chánh nội thuộc nước Tống .
    Nhưng theo như Bài Chiếu thảo phạt Ðại (cồ) Việt của Triệu Quang Nghĩa vua thứ nhì của Tống quốc năm 980 .
    Dịch nghĩa :
    Thanh giáo và oai linh của nước nhà vang dội khắp nơi .
    Cho tới mãi Gần đây, đất Diên Chỉ chưa nhập vào bản đồ (nước Tống ?), tự đứng một phương, gần Ngũ Lĩnh.
    Cuối đời Ðường loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước (bang) , tách xa phong giáo, khiến phong hóa như của kẻ mù, đứa điếc
    Từ khi bình định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc, mà vẫn lo việc binh bị, có ý tự cường .
    Phép thờ nước lớn, lẽ nào như thế?
    Ðể cứu dân, chẳng đặng đừng ta phải đưa quân chinh phạt để thay đổi xứ mọi rợ; nay sai bọn Tôn Toàn Hưng qua đánh .
    (Trích từ bài viết đăng trên mạng ).


    Lướt qua vài hàng lịch sử Đại cồ Việt – Đại Việt :

    Năm 971 quân nhà Tống đánh chiếm Phiên ngung , Hậu chủ của Nam hán xin hàng và nhận chức quan nhị phẩm của Tống quốc , Nước Nam Hán diệt vong .
    Vài dòng Việt sử :
    Năm 931 tức chỉ 1 năm sau khi An nam thuộc về Nam Hán Dương Đình Nghệ nổi dậy quét sạch quan binh nhà Nam Hán ra khỏi bờ cõi .
    Năm 938 Ngô Quyền con rể của Dương Đình Nghệ đánh quân Nam Hán tan tác trên sông Bạch đằng .
    Năm 939 Ngô quyền còn gọi là Ngô vương Quyền lên ngôi hoàng đế nhưng không thấy Việt sử ghi quốc hiệu và niên hiệu .
    Năm 968 nhà Đinh thay nhà Ngô quốc hiệu là Đại cồ Việt.
    Năm 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế , nhà tiền Lê thay nhà Đinh , không thấy sử nói đến việc thay đổi quốc hiệu .
    Năm 1010 Lý thái tổ lên ngôi ở Hoa lư sau dời đô về thành Thăng long trong khoảng năm 1054-1072 vua Lý thánh Tông cải quốc hiệu là Đại Việt , nhà Lý tồn tại tới năm 1225 thì nhà Trần thay thế bằng việc vợ họ Lý truyền ngôi vua cho chồng họ Trần …chưa từng có trong lịch sử nhân loại .


    Như trong bài viết trước đã nhận định :

    Đất Diên - Chỉ gần Ngũ lính tức Nam Hồ nam thì chỉ có thể là đất Chu Diên và Giao chỉ .

    Cuối đời Ðường loạn lạc, đất đai bị chia xẻ, chúng tiếm xưng làm một nước... chỉ việc anh em Lưu Ẩn – Lưu Nham (thực ra là họ Lê) lập nước Đại Việt đô ở thành Phiên Ngung – Phiên Ngu .

    Từ khi bình định Phiên Ngung, ban cho lịch sách mà tuân hành, tuy nhận làm phiên thuộc mà vẫn lo việc binh bị, có ý tự cường ;... ý rất rõ ràng ....sau khi tướng Phan Mĩ nhà Tống đánh chiếm Phiên Ngu bắt vua Lưu Xưởng về an trí ở kinh đô Tống thì Đại Việt – Đại Hưng vẫn là 1 nước vẹn toàn đủ cả Chu Diên và Giao Chỉ , triều đình  mới lập năm 968 định đô ở phía Tây trên đất Giao chỉ chính thức xưng đế năm 970 sau khi Phiên Ngu thất thủ coi như sự tiếp nối liên tục về chủ quyền quốc gia , cứ theo bản văn thì  Đại Việt – Đại Hưng không hề bị xóa sổ ngược lại vẫn còn đủ : vua – triều đình và quân đội riêng chỉ chấp nhận làm 1 phiên quốc của  Tống triều mà thôi . Ngoài bài chiếu trên sự kiện còn được chứng thực bởi chính tước hiệu Nam Việt vương mà nhà Tống phong cho Đinh Liễn (Tư liệu trích dẫn trên lầm là phong cho vua cha Đinh bộ Lĩnh) , thực ra đã có sự cố ý lập lờ ở đây ; chính xác phải gọi Đinh Liễn là Nam Việt quốc vương mới đúng , có lẽ  thiên triều thấy chữ ‘đại’ trong đại Việt là ‘phạm thượng’ nên đổi gọi là nước Nam Việt ...(Nam Việt truyền thống có từ thời Triệu Đà) , Một khi đã là 1 nước dù có là  phiên quốc đi nữa thì cũng phải có vua ;  phải chăng đám ‘cạo sử’ đã thay đổi lịch sử bằng cách xóa đi chữ ‘quốc’ trong tước vị Nam Việt quốc vương ?. Nam Việt cũng chính là quốc hiệu mà nhà Nguyễn yêu cầu Mãn Thanh công nhận nhưng bị tử chối và đổi thành Việt Nam vì e người Việt vin vào đấy xác lập chủ quyền lịch sử trên đất đai Lưỡng Quảng ..., Trước đó quốc danh Nam Việt chính là cơ sở để hoàng đế Nguyễn Huệ đấu tranh thu hồi lãnh thổ đã mất , dân Việt đã chuẩn bị nếu văn chiến không song thì võ chiến ...sống mái 1 phen  nhưng  than ôi ...cơ trời vận nước ...

    Sử Việt rắc rối  từ chỗ này ...

    Chiếu của nhà Tống lập khoảng năm 980  nói đến việc quân Tống đánh Giao chỉ thời vua Lê đại Hành ...nhưng vua Lê Hoàn nào có dính dáng gì đến nước Đại Việt – Đại Hưng đô ở Phiên Ngung của anh em Lưu Ẩn – Lưu Nham theo nội dung của bài chiếu ?, cứ theo tư liệu lịch sử của Tàu và Việt hiện nay thì chỉ có thể :

     Đám quân sư quạt mo soạn chiếu cho Triệu quang Nghĩa là đám ...ngồi trên mây nói chuyện tầm phào không ăn nhập gì với thực tế lịch sử diễn ra dưới mặt đất  . Hoặc ...là giới sử học Việt mắc sai lầm ...lẫn lộn râu ông này cắm vào cằm bà kia ; sự việc chỉ có lí nếu nhìn nhận theo Sử thuyết Hùng Việt : nước Việt không có triều  Lê Hoàn – Lê đại Hành năm 980 đến 1009 mà chỉ có Lê Đại Hành - Đức Chính con của Công Uẩn - Đinh bộ  Lĩnh ở những  năm 980 mà thôi .

    Cuộc chiến kháng Tống của quân dân Đại Việt kéo dài triền miên chia thành nhiều thời kì suốt từ năm 980 cho đến tận năm 1076 thì Đại Việt chịu mất hẳn đất Lưỡng Quảng chính sử gọi là đất Quảng nguyên để đổi lấy hoà bình , Quảng nguyên nghĩa là đất Quảng chỉ Quảng Đông - Quảng Tây ngày nay ..., Sử Việt đã sai cho Quảng nguyên là 1 phần Cao Bằng Lạng sơn , nói thực ...vua quan ‘nhà giời’ tốn bao xương máu trong gần trăm năm  đâu phải để dành lấy miếng bánh cỏn con như thế ...rồi cho huề ?.

    An nam đô hộ phủ là cơ quan của trung ương đóng trên đất Giao chỉ nhưng lo việc bảo hộ các châu KIMI ở nam Giao chỉ .Về mặt lí lẽ thì nhà Tống chỉ có thể đổi chức quan ‘An Nam đô hộ’ thành ‘An Nam quốc vương’ ,  ý nghĩa lịch sử của hành động là ...  từ nay công nhận An nam tức vùng đất ở phía Nam Giao chỉ là 1 vương quốc không phải là đất của các lãnh chúa KIMI chịu sự bảo hộ nữa .
     Lịch sử không hề có tư liệu nào nói ...nhà Tống giải tán Tĩnh hải quân và thay chức Tĩnh hải quân tiết độ sứ bằng An nam quốc vương . Đinh bộ lĩnh không phải họ và tên  chỉ là cách gọi khác theo ‘kiểu’ Việt của Tĩnh hải quân tiết độ sứ tức quan toàn quyền cai quản phía Tây nước Đại Việt , không phải là Tĩnh hải quân tiết độ sứ của Tống quốc ..., Đinh bộ của Đại Việt chỉ lập ra năm 968 là phương án mang tính chiến lược  trong việc đối phó với ý đồ xâm lấn của nước Tống và qủa thực việc đã đến  ; Phiên Ngu kinh đô phía Đông đã rơi vào tay giặc Tống năm 970 .
    Lịch sử thời này phải xem xét lại hiểu cho chính xác là : nhà Tống công nhận Nam Việt quốc vương đồng thời cũng là An Nam quốc vương  tức là vua của cả 2 nước.
    Đất Giao chỉ chưa bao giờ là lãnh thổ cuả nước An Nam . An nam chỉ là tên gọi đất miền Trung trở về Nam được chứng thực qua 2 thời : thuộc Mãn thanh và thuộc Pháp .
    Tư liệu thời Mãn thanh phân biệt rõ gọi đất miền Trung và Nam Việt cùng với Lào và Campuchia ngày nay là  nước Quảng Nam , Bắc bộ là nước Giao chỉ đô ở Đông kinh .
    Thời Pháp thuộc lãnh thổ nước An Nam của triều đình Huế chỉ là miền Trung trở vào Nam  , Bắc kỳ gọi là Tonkin tức Đông kinh  là 1 miền đất khác .
    Sự phân chia này phản ánh đúng sự việc với chiếu đổi tên nước của vua Minh Mạng năm1938 ... “Đức Triệu Tổ (Nguyễn Hoàng ) dựng nên cơ nghiệp ở cõi Nam, Đức Thế Tổ (Gia Long) lấy được cả đất Việt Thường (tức bắc bộ từ tay  nhà Tây sơn ), nhân dân thêm đông, lãnh thổ thêm rộng, nay đổi tên là Đaị Nam, kể từ năm thứ 20 (Minh Mạng), hoặc gọi là Đại Việt Nam cũng được”.
    Bất kể vua Tàu có công nhận hay không  : Trong thực tế lịch sử  Việt nam vẫn là sự hợp nhất 2 miền đất của Nam Việt quốc vương và An Nam quốc vương ;

    Theo sự nhìn nhận của nhà Nguyễn : Việt Thường chính là Nam Việt (đất Đào – Đường  , Đường là phía Nam cổ xưa nay ngược lại ) ; là đất Giao chỉ – Phong châu nước Đại Việt xưa  tức Bắc và Bắc Trung bộ ngày nay còn An nam - cõi Nam chính là miền An Chiêm của Thiên hạ nhà Trần sau là nước Quảng Nam thời Nguyễn tức đất của các lãnh chúa tộc Cơ và tộc Mi phía Nam Giao chỉ trước đây .

    Việc từ năm 1164 trở về sau vua Tàu chỉ công nhận  vua Việt là An Nam quốc vương lờ tịt đi tước  Nam Việt quốc vương  là chuyện đểu cáng của Tàu ám chỉ vua Việt chỉ là vua mọi (theo ý của họ) ...đồng thời ém nhẹm  chôn chặt việc  nhà Tống đã xâm chiếm phần đất phía Đông của nước Đại Việt – Đại Hưng  trước bàn dân thiên hạ .

     Chính triều đình Nhà Tống đã lập ra nước  An – Nam trên giải đất miền Trung Việt Nam ngày nay năm 1164 và phong Lí Anh tông làm An nam quốc vương đầu tiên . Chiêm thành chỉ là tên gọi 1 thời của nước ‘An nam’ mà thực chất  là sự liên kết các châu KIMI phía Nam Giao chỉ thuộc An Nam đô hộ phủ trước đây . Rõ ràng Từ mốc thời gian này mọi cuộc chiến xảy ra trên lãnh thổ 2 nước An Nam và Đại Việt cùng 1 vì vua phải xem là chuyện nội bộ ít ra là chuyện của nội bộ hoàng tộc không hề có chuyện ...chiếm đất diệt quốc diệt chủng như những cái miệng độc ác phun ra chuẩn bị cho mưu đồ đen tối của mình  ... còn nếu muốn nói thì phải nói ngược lại ...khi nước Quảng Nam của vua Gia long người gốc Cầm châu (Nam Lào ngày nay) chiếm Giao chỉ lúc đó gọi là Bắc hà từ tay nhà Tây sơn lập ra vương quốc của họ Nguyễn , Cầm chính là Cam là Cham  là Chim - Chiêm vậy .

    Vấn đề không thể nhận ra  là vì ...dựa vào sử liệu Tàu trong 4 cái kho hàng gian hàng gỉa của Càn long ‘người ta’ đã khiến lịch sử Việt nam rối tinh rối mù không còn biết đâu mà lần ...

      Hôm nay: 19/4/2024, 4:51 pm