Dòng HÙNG VIỆT

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Trang chuyên khảo về lịch sử và văn minh Hùng Việt

Trang chủ


Latest topics

» Đầu non
by Admin Today at 9:39 am

» Trời xanh -mây trắng -núi hồng (hình chụp ở Mĩ)
by Admin 22/3/2024, 2:26 pm

» Nước họ Hùng Bắc thuộc lần thứ I và thứ II.
by Admin 20/3/2024, 1:36 pm

» Lẩn thẩn ...Tiền Hậu , Đông Tây ...không thể nối .
by Admin 13/3/2024, 11:09 am

» Sử thuyết Hùng Việt ...Nhiều điều khác .
by Admin 1/3/2024, 4:52 pm

» Suy nghĩ về cặp đôi Nam – Nữ
by Admin 24/2/2024, 4:58 pm

» 2 chuyện cần bàn thêm
by Admin 23/2/2024, 2:39 pm

» Sử Việt 2 chuyện cần bàn .
by Admin 22/2/2024, 11:49 am

» Cẩn thận Chữ với nghĩa
by Admin 13/2/2024, 2:59 pm

» tết...ta
by Admin 9/2/2024, 4:39 pm

Gallery


Lược sử Hán quốc . Empty

March 2024

MonTueWedThuFriSatSun
    123
45678910
11121314151617
18192021222324
25262728293031

Calendar Calendar

Khách thăm



Lược sử Hán quốc . Flags_1



    Lược sử Hán quốc .

    Admin
    Admin
    Admin


    Tổng số bài gửi : 1185
    Join date : 31/01/2008

    Lược sử Hán quốc . Empty Lược sử Hán quốc .

    Bài gửi by Admin 3/5/2016, 1:19 pm

    Những tộc người sinh trú lâu đời ở phía Bắc Trung quốc ngày nay thuộc chủng tộc tên khoa học là Mongoloid . Theo về Ngũ sắc thì họ ở phương màu Đen , xét theo Cửu thiên thì họ thuộc Huyền thiên  , dựa vào tập tính dân tộc  được gọi là  Khan theo cách họ gọi thủ lãnh của mình .

    Vua chúa là khan , phiên thiết thành khả hãn , độc âm hóa ra hãn  ; quốc gia của Hãn gọi là Hãn quốc , quân của Hãn là Hãn quân . Hãn là danh từ chung tương đương với vương , hãn quốc tương đương với vương quốc do vậy trong lịch sử có thể có nhiều hãn quốc , để có thể chỉ định chính xác trên cái nền khan – hãn giới viết sử đã tạo ra từ ‘Hán’ danh từ riêng để gọi  hãn quốc đầu tiên của tộc người chủng Mongoloid . Từ mốc này trong lịch sử loài người mới có Hán quốc – Hán nhân – Hán tộc – Hán văn và nền văn minh Hán .v.v.

    Hán tộc tức những tộc người gọi thủ lãnh là ‘khan – hãn’ không phải là tộc người thuần nhất mà có nhiều chi do đó trên cái nền màu Đen , Huyền thiên tức phía rét căm căm của Dịch học và từ khan – hãn gọi thủ lãnh ngoài khan – hãn biến ra  Hán giới viết sử cũng đã tạo ra nhiều từ để đặt tên cho các sắc dân chùng Mongoloid này :

    Dựa vào phép phiên thiết : Khan  biến  ra khả hãn , khi tan , khế đan ,khiết đan , khất đan .v.v.

    Màu Đen – Huyền thiên tạo ra :

    Mông – mờ tối  gọi người – tộc và nước Mông cổ ,  kí âm La tinh là  Mongol

    Lu (ngược với tỏ) sau Lu biến ra Liêu – Lưu để gọi người Liêu nước Liêu

    Căm là rét mướt biến ra Kim

    Mun màu đen biến ra man , Mãn – Mĩn tức Minh (tối) .

    Ngoài ra dựa vào tên tự xưng của họ là Tacta kí âm chữ Nho thành ra : Thát – Đát – Thiết – Thất .v.v. , (giới sử học phương Tây thường dịch Tacta là rợ).

    Rất nhiều người lầm tưởng đại hãn Mông cổ tên là Thành cát tư hãn  cũng là Thiết mộc chân ;Thực ra : thành cát thiết Thát , thành cát tư hãn tức Thát hãn chỉ nghĩa là chúa rợ Tacta không phải tên riêng .

    Thiết mộc chân :  mộc chân thiết man ; thiết mộc chân cũng là rợ Thát mà thôi .

    Giới viết sử cũng đã lợi dụng phép phiên thiết Hán văn để cải đổi  bẻ cong lịch sử Thiên hạ nhiều lần như ….Giặc phiên thiết ra Da luật trong hoàng tộc Da luật của người Liêu , hãn thay bằng phiên thiết thành họ  hoàn – nhan vua nước Kim .v.v.

    Chính sử Trung quốc  viết Quê hương gốc tổ của họ là vùng Thiểm Tây – Sơn Tây và Hà Bắc ở phía Bắc Hoàng hà .

    Tôi đã bỏ ra cả 2/3 cuộc đời mình để chứng minh điều này là sai sự thật nay …bỗng dưng ngộ ra …sử Trung quốc hoàn toàn đúng vì  họ nhận mình thuộc  chủng Mongoloid tức cùng tộc người với Mông cổ , Liêu , Kim  gọi chung là Tacta – Thát Hung nô tức những tộc người sống ở phương màu Đen hay Huyền thiên đâu có dính gì đến Thiên hạ của Tam hoàng Ngũ đế …

    Giới khoa học Trung quốc đã xác định  Lãnh thổ nước họ vào thời điểm nhà Hạ Trung hoa là đây :

    Lược sử Hán quốc . Hacca3

    Hình trích wiki – internet

    Sách Thượng thư viết trong thiên Vũ phu thổ ….Đại Vũ chia nước thành 9 châu ….phía Đông 9 châu là biển …rõ ràng nước mà họ gọi là Hạ trong bản đồ trên làm gì có biển vì thế đâu có phải là nước của vua Đại Vũ …

    Ngoài Thượng thư nhiều Tư liệu lịch sử khác cũng viết lãnh thổ nhà Hạ nhà Thương …tiền Giao chỉ …mặt tiền là Giao chỉ .Điều có tính quyết định là khoa học ngày nay đã xác định được vào thời nhà Hạ cư dân vùng ...tiền Giao chỉ tức Hoa Nam ngày nay là những người thuộc loại hình nhân chủng Nam Mongoloid hoàn toàn khác biệt với người Mongoloid tổ tiên người Trung quốc ,như thế là ... rõ ràng có 1 nhà Hạ nhà Thương khác của con cháu  Phục Hy Thần nông Hoàng đế  chép trong Thượng thư không phải là nhà Hạ  cách xa Giao chỉ đến vài ngàn km  của Hán sử nòi Monggoloid như được xác định  ở sơ đồ trên.


    Hán quốc đầu tiên theo Hán sử là nước Tiền Hán hay Tây Hán của ông Lưu Bang lập năm 206 TCN và nước Hậu hay Đông Hán của Hán Quang vũ đế lập năm 25 SCN ở Hà Bắc ngày nay .

    Cứ tạm cho Hán sử là chân thực thì nước Hán , người Hán , văn minh Hán sớm lắm cũng chỉ có từ đầu Công nguyên , như thế những gì sách vở tư liệu ghi chép về Thiên hạ và người trong Thiên hạ  trước thời điểm đó đương nhiên không thuộc về lịch sử và lịch sử văn minh Hán tộc .

    Thông tin đầu tiên về tộc người sống ở phía màu Đen nay là phía Bắc Thiên hạ ghi chép vào thời nhà Thương Ân tức triều đại  Thương thứ II (ân – ơn đồng nghĩa với nhị nhì) …, phía Bắc (nay) nhà Thương Ân có thuộc quốc Quang , phía Đông là thuộc quốc Từ …, Thông tin này phải hiệu chỉnh theo ngôn ngữ ngày nay :

    Quang là tam sao thất bản của Quan nghĩa là Nom – nhìn , Nom – Non là  phương Nam , thuộc quốc Quan nghĩa là thuộc quốc ở phía Nam …, nước Quang – Quan về sau chính là nước Đông Hán hay Hậu Hán của Hán Quang vũ đế .

    Tương tự ‘Từ’ là chuyển ngữ của ‘Thương’ tiếng Việt , thương yêu – Từ ái là Dịch tượng của phương Đông , thuộc quốc Từ là tên phiếm chỉ thuộc quốc ở về phía Đông Thiên hạ .

    Thời nhà Châu , người họ Hùng đã làm chủ lưu vực sông Hoài , nhà Châu gọi họ là Hoài Di , ngoại chủng ở vùng Sơn Đông – Hà Bắc được gọi là người Từ Nhung ; Từ chính là tên thuộc quốc Từ phía Đông thời Thương Ân trước , Nhung là mềm dịch tượng của phía Đông ngược với khăng – cứng phía Tây .

    Thời Tần , Tần thủy hoàng đã sai Mông Điềm quét người Nhung khỏi vùng Hà Nam (Bắc ?) nghĩa là phía Nam Hoàng hà nay là Sơn Tây – Hà Bắc nhưng sau khi Mông Điềm mất rồi khắp nơi nổi dậy chống Tần bạo ngược biên cương không người canh giữ người Nhung đã lợi dụng dịp này kéo về chiếm lại  vùng đất bị mất trước đó .

    Cả nhà Châu và nhà Tần lãnh thổ ở phía Tây nên gọi tộc người ngoại chủng sống ở Hà bắc Sơn đông là rợ Nhung , nhung là  mềm – nhũn Dịch tượng của phía Đông .

    Dưới triều đại của Lưu Bang đám rợ  Nam man được gọi chung là Hung nô , thiền vu Hung nô Mao dun học theo triều đình Lưu Bang  lập ra 1 quốc gia du mục đối với Thiên hạ của Lưu Bang thì sớm đầu tối đánh khiến vua tôi Lưu Bang mất ăn mất ngủ ,có lần 3 -4 trăm ngàn kị binh Hung nô vây Lưu Bang ở Tây Mã ấp nhiều ngày đêm lương thực cạn kiệt súyt mất mạng may mà thoát chạy được từ đấy vùng Bắc Hoàng hà ngày nay thuộc hẳn về Hung nô . Mao dun – Mạo đốn đâu có phải tên tuổi gì ; mao dun thiết mun – man chỉ đám rợ Nam man , cụm từ ‘thiền vu mao dun’ chỉ nghĩa là chúa mọi …

    Hung nô đã trở thành kẻ thù 1 mất 1 còn với  ông  Lưu Bang ròng rã nhiều năm trời . Để yên thân Lưu Bang áp dụng chính sách hoà thân  kết thành nước anh em với họ và mỗi năm …cống nạp cho ‘anh em’ cả đống lụa là châu báu , chắc ăn hơn hoàng đế họ Lưu (gọi theo sử Trung hoa) đi nước cờ …’tình cảm’  nhiều lần thông hôn với các Thiền vu Hung nô tạo ra  hoàng gia tạp chủng đầu tiên của Thiên hạ .

    Cuối triều đại do Lưu Bang lập nên , các vua sau cùng  trở nên hư đốn , sưu cao thuế nặng khiến  dân chúng khắp nơi kêu than oán thán , qua cái gọi là phép ‘thiện nhượng’ kẻ sĩ ngoại thích Vương Mãng lên nắm quyền 1 cách hoà bình lập ra triều đại mới sử gọi là nhà Tân .

    Vương Mãng làm cuộc cách mạng toàn diện đảo lộn tận gốc rễ xã hội  tưởng là sẽ đem lại sung sướng cho mọi người nào ngờ mong muốn tốt đẹp tuyệt đối của Vương Mãng chỉ là không tưởng làm sao có thể có 1 xã hội như thế trong thực tế , bọn tham quan ô lại lợi dụng cải cách bóp nặn người dân đến độ bần cùng , nhân tai như thế cộng thêm với thiên tai mất mùa có nơi người ta phải ăn cả cỏ .

    Thời Lưu Bang đã kết anh em với Hung nô , hoàng gia đã là hoàng gia tạp chủng , hung nô thoải mái tràn vào trung nguyên tạo ra 1 thiên hạ tạp chủng  , Vương Mãng thi hành chính sách phân biệt chủng tộc …tư liệu viết Vương Mãng cấm người họ Lưu làm quan thực ra là hạ người Liêu xuống thành dân hạng 2 hay phó thường dân không cho ngang hàng với người Thiên hạ chính gốc . Các vương Hung nô đều bị Vương Mãng hạ cấp xuống tước Hầu , cấp cho ấn tín nhỏ hơn …, ai không phục là Vương mãng động binh trừng phạt …,đối nội đối ngoại như thế không thể không sinh loạn …

    Đám qúy tộc gốc người Liêu bị Vương Mãng tước quyền đã  nổi loạn ban đầu chỉ là đám cướp rừng cướp núi gọi là  ‘Lục lâm thảo khấu’ nghĩa là bọn giặc cỏ Lục lâm nào ngờ giặc cỏ đắc thời , Lục lâm thảo khấu trở thành Hán quân ,  tướng cướp Lưu Huyền trở thành Hán Canh thủy đế của nước Hán không có tên trong sử (?) , Hán Canh thủy đế bị quân Xích Mi diệt , Hán Quang vũ đế lên ngôi ở Hà Bắc lập ra nước Đông Hán tiếp nối .

    Lịch sử Hán quốc chính thức bắt đầu từ thời điểm này .

    Hán Quang vũ xứng là tay đại hãn  chỉ trong vòng 20 năm đã chiếm gần trọn Thiên hạ , đất đai cực Nam kéo đến tận Giao chỉ .

    Lưu Bang là nông dân thất học khi mới lên ngôi tỏ ra khinh thường đám Nho sĩ nhưng về sau cũng buộc phải dùng họ làm quan để cai quản dân chúng các nơi , Lục lâm thảo khấu chiếm kinh đô Tràng an lập ra  triều đại  Canh thủy đế của Hán quốc không tên (thực ra là bị đám viết sử đời sau cạo xóa quốc hiệu) , Thiên hạ như rắn mất đầu ….khắp nơi quan mục tha hồ xưng bá xưng vương lập ra đủ thứ nước …riêng phía Nam trên đất Giao châu các quan tự đóng cửa giữ thành không xưng gì cả …sử gọi là Sĩ nhiếp tức kẻ sĩ tạm nắm  quyền cai quản khi không có vua và triều đình trung ương , không có nhân vật lịch sử nào họ Sĩ tên Nhiếp như hiện nay tưởng.

    Lịch sử Thiên hạ bị đánh cắp biến thành lịch sử Hán quốc ở ngã rẽ này .

    Triều đại do ông Lưu Bang lập nên chỉ có thể gọi là nhà Hiếu vì tất cả các vua đều có chữ Hiếu làm đầu miếu hiệu ; Lưu Bang (gọi theo sử Trung quốc) là Hiếu Cao  hay Hiếu cao tổ , Lưu Triệt là vua đã đánh bại Nam Việt thống nhất Thiên hạ là Hiếu Vũ .v.v.

    Hoặc cũng có thể gọi là triều đại Hưng vì kinh đô Tràng an của triều Lưu Bang còn được gọi là thành đại Hưng .

    Đám lưu manh viết sử đã biến … Hưng thành Hán và Hãn tức thủ lãnh Hung nô cũng thành Hán , dân gian có câu ….mập mờ đánh lận con đen …là thế ; Hưng cũng là Hãn và hãn bỗng thành Hưng …, nước đại Hưng mập mờ biến ra đại Hán …thế là bỗng chốc  toàn bộ lịch sử và văn minh Thiên hạ tiền ‘lục lâm thảo khấu’  trở thành lịch sử và văn minh Hán tộc , Tam hoàng – Ngũ đế tự nhiên thành ra tổ tiên người Hán …

    Hán quốc tức Hãn quốc nghĩa là nước của đại hãn Hung nô lập quốc buổi đầu công nguyên :

    *Triều thứ 1 là Tiền hay Tây Hán của chi Hung nô phía Tây vua đầu là Hán Canh thủy đế

    *Triều thứ 2 là hậu Hán hay Đông Hán của chi Hung nô phía Đông  hay Đông Hồ do Hán Quang vũ đế lập .

    *Triều thứ 3 là Tào Ngụy với ông tổ là Tào Tháo đất tổ là vùng Sơn Đông – An huy ngày nay

    * Triều thứ 4 thực ra là triều Tây Hán của chi Tây Hung nô tái sinh , giới sử học Trung quốc dùng tên phiên thiết thay vào gọi là triều Tấn (tây hán thiết tấn) , rồi họ đem tên ‘Tây Hán’ gán cho triều đại của ông Lưu Bang tạo ra cây cầu cứ như thể Tây Hán nối liền một mạch sang Đông Hán không phải là  Hung nô đánh và chiếm Thiên hạ .

    Triều Tấn hay Tây Hán tái sinh đã diệt 2 nước Thục và Ngô của người ‘Thiên hạ’ mới tái dựng sau cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng , Việt sử gọi là khởi nghĩa 2 bà Trưng , dòng sử Việt không có thời gọi là ‘Tam quốc’ chỉ có thời ‘Lưỡng triều phục quốc’ hay thời ‘thù trong giặc ngoài’ .

    Tấn triều  tồn tại chưa bao lâu thì sinh  biến loạn , mỗi ông hoàng bà chúa trong hoàng tộc dựa vào 1 chi  Hung nô nổi lên đánh nhau tơi tả dành ngôi đại hãn …kết qủa sau cùng Hoa Bắc chia thành 16 nước của Hung nô , sử Trung quốc gọi là thời ‘Ngũ Hồ loạn Hoa’. (Hung nô thiết hồ).

    Con cháu nhà Tấn – Tây Hán chạy xuống miền  Nam  lập ra triều đại sử gọi là nhà Đông Tấn của nước Hán . Do tình thế bắt buốc Đông Tấn không dám coi người Hoa Nam là đám nô lệ như trước mà nâng lên hàng ‘phó thường dân’ , tuy đã được làm người nhưng địa vị vẫn phải đứng dưới người Hán .

    Năm 304 chúa 1 chi Hung nô là Lưu Uyên lập ra nước Bắc Hán cũng gọi là Hán Triệu , Lưu Uyên nhận là hậu duệ của Thiền vu Mao dun kẻ thù không đội trời chung với Lưu Bang xưa như thế đã xác định rõ dòng Hán và Hung nô là 1 ; nói khác đi Hán là 1 trong Ngũ Hồ mà thôi không phải là con cháu của Tam hoàng Ngũ đế chủ của Thiên hạ thời thái cổ .

    Tình thế Thiên hạ lúc này vô cùng bi đát , miền Bắc  nằm gọn dưới móng ngựa Ngũ Hồ trong đó  ‘Hồ’ lớn nhất chính là Hán tộc (chiếm 5/16 nước của rợ ). Miền Nam dễ thở hơn với quy chế nửa nô lệ , thôi thì dù sao làm phó thường dân vẫn tốt hơn súc vật …

    Khổ đau và nỗi nhục mất nước của người Thiên hạ chỉ chấm dứt vào năm 557 khi nhà Bắc Châu đánh đuổi Hung nô lên làm chủ Thiên hạ .

    Thiên hạ  thịnh trị từ năm 557 với nhà Bắc Châu , qua nhà Tùy 581 – 618 tới hết đời Đường năm 907  (Sử thuyết Hùng Việt gọi là Cửu Việt Tủy Việt và Thường Việt) thì Miền Bắc lại 1 lần nữa rơi vào tay Hung nô , miền Nam chia thành Thập quốc .

    Từ những năm 960 Thiên hạ chia 3 ; đây mới là thời Thiên hạ Tam quốc thực sự.

    Phía Tây là Đại Lí , Đông là đại Tống và hướng Xích đạo là đại Việt .

    Từ năm 947 nước Liêu giống Hung nô làm chủ vùng Bắc Hoàng hà

    Năm 1038 đến 1234 lần lượt hết Tây hạ đến rợ Kim xâm lấn sau cùng chiếm mất Hoa Bắc của Tống , nhà Tống chạy về miền Nam , sử gọi là Nam Tống .

    Trong khoảnh những năm Năm 1271 – 1368 Mông cổ lần lượt nuốt đại Lí rồi đại Tống trong đó có miền Đông Đại Việt do Tống chiếm trước đó đặt gần trọn Thiên hạ chỉ trừ miền Tây đại Việt dưới móng ngựa của họ .

    Thời Mông cổ cai trị là thời kì đen tối nhất của Thiên hạ , đặc biệt là người miền Nam nói chung thân phận không hơn loài súc vật …

    Thành cát tư hãn tạo ra  1 đế quốc mênh mông thiên địa và ông chia đất đai  thành 4 hãn quốc , 3 hãn quốc giao cho con cháu và 1 gọi là đại hãn quốc trước là đất gốc Mông cổ cộng với Mãn châu nước Kim và đất đại Thiên hạ (thường gọi sai là Trung hoa) do chính Thành cát tư hãn cai trị và truyền cho con trai ngành trưởng , đại hãn quốc của đế quốc Mông cổ về hình thức tương tự như Trung hoa của Thiên hạ , 3 hãn quốc kia là các chư hầu .

    Đại Hãn quốc chính là Hán quốc tái sinh ở thời trung cổ ; triều Nguyên của đại hãn quốc thực sự tiếp nối truyền thống  Hán quốc từ thời ‘Lục lâm thảo khấu’ tôn tướng cướp lên làm vua , Thiết mộc chân chính là truyền nhân của Hán Canh thủy đế và Hán Quang vũ đế ngàn năm trước .

    Nhà Nguyên của đại Hãn quốc bị ông Chu nguyên Chương đánh đuổi chạy về Mông cổ , trong lúc nguy khốn sắp tuyệt dòng thì người Nữ chân vớ được ấn truyền quốc của Thành cát tư hãn thế là họ phất lên lập ra triều Mãn Thanh của đại hãn quốc .

    Vua quan Mãn Thanh khôn ngoan hơn , ban đầu chỉ trực tiếp cai trị Hoa bắc tức đất thuộc địa của nước Kim xưa vì Kim – Mãn là 1 dòng giống , còn Hoa nam họ lập ra 3 phiên quốc giao cho 3 phiên vương là quan nước Minh – Ngô trước cai trị . Sau thời gian củng cố cảm thấy chân đế đặt trên đất Thiên hạ đã vững  vua Mãn Khang hy ra lệnh triệt Tam phiên đặt ách cai trị trực tiếp của Mãn thanh trên miền đất này .

    Liên tiếp 3 đời vua Mãn từ Khang Hi Ung Chính tới Càn long người Mãn triệt để Hồ hóa dân Thiên hạ , cuộc văn chiến tổng lực liên tục kéo dài mà đỉnh cao là vào thời cai trị của Càn long , tất cả sách vở và bản đồ trong Thiên hạ bị thu về cho hơn 300 quan ‘bác sĩ’ cạo sửa , cạo không nổi thì đốt …xong chất vào 4 cái kho hàng gian hàng gỉa gọi là Tứ khố toàn thư …Nói chung với Tứ khố toàn thư thì từ lịch sử tới văn chương học thuật hết ráo Thiên hạ không còn là …Thiên hạ nữa  mà là cái sản phẩm của cái quái thai Hoa – Hán 1 nhà do ông cháu Khang hi – Càn long đẻ ra .

    Cách mạng Tân hợi thành công triều đại Mãn thanh của Đại Hãn quốc cáo chung , năm 1911 nướcTrung hoa ra đời .

    Như thế trước năm 1911 làm gì có nước Trung hoa và nền  văn minh Trung hoa ?.

    Theo Cách tổ chứcThiên hạ cổ xưa :

    Trung quốc và chư hầu hợp thành Thiên hạ , người sống ở Trung quốc  gọi là Hoa hạ , sống ở 4 phương gọi thì gọi là Tứ Di .

    Trung quốc là nước ,  Hoa hạ là người , Trung quốc – Hoa hạ gọi tắt là Trung – Hoa là từ chỉ vùng lõi hay xương sống của cả Thiên hạ , xét ra  mỗi triều đại có trung hoa của mình , trung hoa nhà Thương không phải là trung hoa của nhà Châu và càng không phải là trung hoa thời Tùy - Đường .


    Hoàng đế  sống và trực tiếp cai trị Trung quốc với sự giúp việc của triều đình trung ương thường gọi ‘đùa’ là thiên triều . chung quanh Trung quốc vua phong tước kiến địa lập ra các nước chư hầu có chúa và triều đình riêng  , đặc ân này thường là ban cho con vua và các vị khai quốc  công thần . Ngôi vương chư hầu được cha truyền con nối nhưng phải được hoàng đế chuẩn phong , làm ‘bừa’ sẽ bị khép vào tội đại nghịch bất đạo và Thiên binh sẽ được cử đến hỏi thăm …

    Xét ra quốc danh Trung Hoa mà dùng trong thời đại ‘dân quốc’ hay ‘Cộng hoà nhân dân’ là không chuẩn …Thử hỏi với Trung quốc hiện nay thì đâu là Trung hoa đâu là chư hầu ?, không lẽ như đã kí thác trên  quốc kì …ngôi sao lớn là Trung hoa của người Hán và Hán hóa còn 4 ngôi sao nhỏ tượng trưng cho Tứ Di ….Mãn Hồi Mông Tạng ?.

    Tình trạng Trung quốc hiện nay …Kẻ thống trị và kẻ nô lệ bỗng dưng nhập thành 1 và cùng hưởng chung gia sản cha ông để lại thế mới ngộ …, cha ông chủng Nam Mongoloid bỗng dưng có đám con cháu chủng Mongoloid thừa kế gia tài  thế mới hay … , ngược lại không ít người chủng Nam Mongoloid ở Hoa Nam hướng vọng về nấm mộ chứa bộ xương Mongoloid ở Hoa Bắc mà rơi lệ… thật đáng thương làm sao  …

    Sử thuyết Hùng Việt ra đời để chấm dứt cảnh này …

      Hôm nay: 28/3/2024, 3:11 pm