Bản thân người viết bài thuộc hàng abc chữ Nho nhưng thấy được tầm
quan trọng của tương quan : tên nước và lịch sử của 1 quốc gia hay 1 dòng tộc nên mạo muội liều lĩnh đưa ra ý kiến như 1 sự gợi ý để các bậc túc Nho quan tâm đến vấn đề .
Cổ sử Trung hoa và truyền thuyết
Việt viết trên cái nền Dịch học nên chỉ với ngôn ngữ Dịch học người
ta mới có thể biết đích xác thông tin chứa trong những sách cổ đó ;
nghĩa là biết được lịch sử thực của Việt nam và Trung hoa .
Tên
gọi 1 quốc gia 1 dân tộc nếu viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thì đương nhiên
phải mang 1 nghĩa nào đó , ngược lại nếu quốc danh hay tộc danh mà
không có nghĩa thì đấy chắc chắn là tên do ký âm ngôn ngữ khác mà có
ví dụ như chữ Hán chẳng hạn , Trong Hán văn …Hán nghĩa là gì ? đố ai
biết …vì từ Hán chỉ là ký âm của ‘Hãn’ nghĩa là ‘chúa’ trong tiếng
Mông cổ …
Giới nghiên cứu khoa học Việt đã tốn không biết bao nhiêu
công sức giấy mực cho chữ Việt nhưng ý nghĩa vẫn chưa thực sáng tỏ ;
đạt sự đồng thuận để có thể coi là nghĩa chính thức .
Khi đặt
trên cái nền Dịch học thì nghĩa của chữ Việt sẽ hiện ra .
1 / Chữ
Việt thứ I là chữ Việt – Vượt bộ Mễ : 粵 , riêng nhà nghiên cứu Lãn
Miên cho là bộ Thái .
Chữ Việt này dùng phép chiết tự suy ra :
-
là nét ‘tượng
hình’ của hình vẽ thực chỉ nơi giao cắt
của những đường kẻ : Nam – Bắc , Tây – đông , Thượng - hạ , tạo thành
từ Giao chỉ , chỉ vừa nghĩa là đường kẻ vừa là biến âm của ‘chỗ’ ;
Giao chỉ = chỗ giữa tức vùng đất trung tâm của thiên hạ hay còn gọi
là Trung thổ Trung nguyên Trung châu .
- phần mượn âm để
đọc : việt = cái rìu tức cái búa dẹp hay dẹt , Phủ – việt là búa
–rìu , thực ra cả 2 đều là từ Việt biến âm .
Búa là cái dùng để
bổ (động từ) : Bổ ↔ búa ↔ bủ – phủ .
Búa dẹp là cái dùng để
chặt , dẹp ↔ dẹt ↔ diệt – việt .
Chữ Việt bộ Mễ nghĩa là Vượt ,
là danh từ riêng tên của 1 quốc gia , hình vẽ chữ Mễ chỉ ra …nước
Việt có lãnh thổ là vùng Giao chỉ tức trung tâm thiên hạ .
Phối
hợp 2 chữ mượn chỉ tính chất và chỉ thanh âm cho ta 1 danh từ riêng
với ý nghĩa : Việt – Vượt là tên gọi 1 đất nước , đây đích thị là
quốc danh của quốc gia tiền nhân người Việt lập nên khởi đầu ở thời
Hùng Việt vương Tuấn lang tức ông Đại Vũ tổ của vương quốc Trung hoả
(theo Sử thuyết Hùng Việt ), thời Tản viên sơn thánh tức Việt vương
Tuấn lang là thời vượt lũ “….nước cao thêm thì núi cũng vượt cao thêm
..” .đấy chính là nghĩa của chữ Việt – vượt ‘quốc danh’ .
Vậy :
Chữ Việt bộ Mễ 粵 là danh từ riêng dùng trong tên các nước do người
họ Hùng lập ra như : nước Việt thời Hùng Việt vương , nước Việt của
Việt vương Câu tiễn , nước Nam Việt của Triệu Đà , nước Đại Việt thời
Lý công Uẩn và sau cùng là Việt nam ngày nay .
Về danh xưng nước
Việt trong lịch sử các sử gia thường nhấn mạnh đến nước Nam Việt của
Triệu đà …
Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định nước Hán, đóng
đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN], (Tần
Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt
Vương…
Giới sử học Việt hiện chia thành 2 trường phái nhận và phủ
nhận vai trò khởi đầu lịch sử dòng giống Việt của Triệu đà với
nước Nam Việt .
Riêng Sử thuyết Hùng Việt cho nước Việt khởi lập
trước mốc lịch sử nước Nam Việt của Triệu vũ vương cả 2000 năm
.
Trong 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt có đời Hùng Việt vương –
Tuấn lang .
Tuấn chỉ là tam sao thất bản của Tốn , quẻ Tốn tượng
là phong – gió chỉ phía Tây theo dịch học .
Tuấn lang =Tốn vương
↔Tản viên… nghĩa là chúa đất Phong hay đất phía Tây.
Xét tới đây đã
có thể xác định : Hùng Việt vương – Tuấn lang chính là “Tản viên sơn
thánh quốc chúa đại vương” tức Sơn tinh trong cuộc chiến Sơn tinh – Thủy
tinh .
Trong danh xưng của đời vua : Hùng Việt vương – Tuấn lang thì
:
Hùng là nước Hùng tức nước của người họ Hùng , cổ sử Trung hoa
gọi là Hữu Hùng quốc , Việt là triều đại ở đây ý nghĩa danh xưng
trọn vẹn là nước Hùng triều Việt vương , vua khai sáng là Tuấn lang
hay Tốn vương – Tản viên .
Nền sử học Trung quốc không phân biệt quốc
và triều , nước và nhà ….nước Đường cũng là nhà Đường và dĩ nhiên
nước việt cũng là triều đại Việt …
Sử kí ,Việt Vương Câu Tiễn thế gia
:
Việt Vương Câu Tiễn, tổ tiên ông ta là hậu duệ của Vũ [tức là Hạ Vũ, người
nối nghiệp Đế Thuấn], [# Chính nghĩa Ngô Việt xuân thu nói: “Vũ đi khắp thiên
hạ, trở về nước VIỆT, lên núi Mao để họp quần thần bốn phương, phong người có
công, phong tước người có đức, chết rồi táng ở đây. Đến Thiếu Khang sợ dứt việc
tế tự tông miếu của Vũ, bèn phong con thứ của mình ở đất Việt, hiệu gọi là Vô
Dư”….
Chuỗi Móc xích thông tin : Đại Vũ vua nước Việt trị thủy
thành công – Hùng Việt vương Tuấn lang – Tản viên Sơn thánh – sơn tinh
chiến thắng Thủy tinh …cho phép :
Kết luận : Trong dòng cổ sử Rõ
ràng nước Việt của đại Vũ cũng chính là nước Việt của Hùng Việt
vương – Tuấn lang ; Đại Vũ tổ nhà Hạ trong lịch sử Trung hoa chỉ là
1đời trong 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt .
2 / chữ Việt thứ II –
chữ Việt = Nhiệt : 越 là chữ Việt bộ Tẩu .
Cấu thành từ
chữ tẩu là chạy và chữ qua là 1 loại binh
khí .
Qua là từ mượn âm , mượn âm của cái ‘qua’ là binh khí nhưng
hiểu là quá , vượt qua .
Ghép 2 phần thành cho ra ý …chạy qúa tức
là vượt , vượt ↔ việt.
Chữ Việt bộ Tẩu 越 chỉ là chữ mượn âm
‘việt’ để tạo danh từ riêng chỉ dân sống ở vùng nóng hướng Xích đạo
do biến âm : Việt ↔ diệt ↔ nhiệt .
Trong văn minh Á đông cổ có Cửu
thiên nghĩa là 9 phương trời :
Viêm thiên
chỉ vùng viêm nhiệt tức hướng xích đạo nóng bức màu đỏ , Đỏ – Xích
– Hồng – Đào cùng 1 nghĩa . Phương trời ngược lại là Huyền thiên ,
huyền ở đây là màu đen đồng nghĩa với Mun – ô .
Vì đặt trên cái
nền Dịch học tiêu biểu là Cửu thiên nên người Trung hoa xưa coi vùng lưu
vực Hoàng hà là Trung thổ – trung nguyên , gọi dân sống ở nam Trường
giang là Bách Việt , Việt còn phát âm là Diệc – Diệt mà Diệt cũng
nghĩa là Nhiệt là nóng bức như thế ‘Bách Việt’ là danh từ riêng chỉ
tộc người ở miền nóng tức Viêm thiên đối đẳng với tộc người sống ở
Huyền thiên được gọi là Mun tộc , Mun = màu đen biến âm ra Man , Mãn ,
Mông , Minh .v.v.
Xét như vậy thì chữ Việt bộ Tẩu là tộc danh
của tộc người sống ở hướng nóng bức ; đó chính là cộng đồng người
họ Hùng mà sử sách gọi là Bách Việt cũng là bách Nhiệt vì thế
chữ Việt này dùng trong tên các chi tộc của Bách Việt như : Lạc Việt
, Di Việt , Dương Việt , Ngô Việt , Mân Việt ,Điền Việt , Đông Việt .v.v.
.
Ngày nay do quên mất gốc không thấu suốt cách tạo chữ nên sách vở
– văn bản vẫn còn tùm lum , lẫn lộn không phân biệt đâu là ‘quốc danh ’
đâu là ‘tộc danh ’ phán bừa …Việt nào cũng là Việt dùng chữ nào
cũng được cả .
Trong quốc hiệu Việt nam ngày nay khi viết bằng chữ
Nho vẫn dùng chữ Việt bộ Tẩu với ý chỉ Việt tộc – Nhiệt tộc ghép
với chữ Nam là phương Nam .
Phương Nam đa số học gỉa giải thích là
phương Nam so với Trung quốc ….hiểu như thế là vô hình trung ngay trong
quốc hiệu đã ẩn tàng tính phụ thuộc , sao không xưng là Việt Bắc
….nếu so với Indonesia ?, từ ‘phụ thuộc’trong danh xưng đến ‘ lệ
thuộc’ là khoảng cách rất ngắn , có cách hiểu khác hay hơn rõ hơn
….Nam là phía Nam chỉ ra vị trí nước Việt ngày nay nằm ở phía Nam
bản đồ ‘Thiên hạ’ , chẳng phải phía Nam của anh quái nào cả .
3 –
CHINA .
Tại sao ký âm Latinh lại viết Trung hoa là China ?.
Âm China
không dính dáng gì đến âm Trung – hoa hay Hán – hãn mà cũng chẳng thấy
hơi hám của Mông – Thát hay Khiết đan gì gì trong đó …vậy China mọc ở
đâu ra vậy ?.
Có người cho là : China là ký âm Latinh của từ Tần
,Tần là tên quốc gia nằm ở phía tây ‘thiên hạ’ đã có công thống nhất
Trung quốc cả về lãnh thổ và những nét chính của nền văn hóa như Văn
tự và Đo lường .v.v.
Điều này xem ra cũng có lý và rất lý thú
…
Tần còn gọi là Tây Tần đã chỉ ra vị trí nước này ở phía tây
trên bản đồ ‘thiên hạ’ thời Xuân thu – chiến quốc , thực ra quốc danh
Tần cũng chỉ là từ chỉ phía tây mà thôi ,thực vô cùng lý thú khi
khám phá …nó là từ Việt ngữ .
“Tần, phát âm theo Hán ngữ là “Chín”
(Qín), người Ấn Độ phiên cái âm “Chín” ấy thành China, sau người phương Tây theo
đó gọi Trung Quốc là China.” (Trích bài Chữ Khoa Đẩu của tác gỉa Lãn
Miên trên mạng internet )
Trong đồ
hình Hà thư (đồ) 2 số 4 và 9 là số của phương Tây , ngay từ Tây trong
phương Tây cũng chỉ là biến âm của Tư số 4 tiếng Việt mà ra .
- 4 Tư
↔ Tây .
- 9 Chín (tiếng Việt) ↔ Tần (Hán Việt) , như đã viết ở trên
chính người Hoa phát âm là ‘Chín’ hoàn toàn đúng với cái gốc số 9
chín Việt ngữ chỉ phương Tây của Hà thư .
Dưới ánh sáng Dịch học
…đến cái quốc danh CHINA ký âm La tinh chỉ Trung Hoả cũng lộ rõ gốc
là 1 từ Việt thuần …hỏi còn gì phải bàn nữa
quan trọng của tương quan : tên nước và lịch sử của 1 quốc gia hay 1 dòng tộc nên mạo muội liều lĩnh đưa ra ý kiến như 1 sự gợi ý để các bậc túc Nho quan tâm đến vấn đề .
Cổ sử Trung hoa và truyền thuyết
Việt viết trên cái nền Dịch học nên chỉ với ngôn ngữ Dịch học người
ta mới có thể biết đích xác thông tin chứa trong những sách cổ đó ;
nghĩa là biết được lịch sử thực của Việt nam và Trung hoa .
Tên
gọi 1 quốc gia 1 dân tộc nếu viết bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thì đương nhiên
phải mang 1 nghĩa nào đó , ngược lại nếu quốc danh hay tộc danh mà
không có nghĩa thì đấy chắc chắn là tên do ký âm ngôn ngữ khác mà có
ví dụ như chữ Hán chẳng hạn , Trong Hán văn …Hán nghĩa là gì ? đố ai
biết …vì từ Hán chỉ là ký âm của ‘Hãn’ nghĩa là ‘chúa’ trong tiếng
Mông cổ …
Giới nghiên cứu khoa học Việt đã tốn không biết bao nhiêu
công sức giấy mực cho chữ Việt nhưng ý nghĩa vẫn chưa thực sáng tỏ ;
đạt sự đồng thuận để có thể coi là nghĩa chính thức .
Khi đặt
trên cái nền Dịch học thì nghĩa của chữ Việt sẽ hiện ra .
1 / Chữ
Việt thứ I là chữ Việt – Vượt bộ Mễ : 粵 , riêng nhà nghiên cứu Lãn
Miên cho là bộ Thái .
Chữ Việt này dùng phép chiết tự suy ra :
-
là nét ‘tượng
hình’ của hình vẽ thực chỉ nơi giao cắt
của những đường kẻ : Nam – Bắc , Tây – đông , Thượng - hạ , tạo thành
từ Giao chỉ , chỉ vừa nghĩa là đường kẻ vừa là biến âm của ‘chỗ’ ;
Giao chỉ = chỗ giữa tức vùng đất trung tâm của thiên hạ hay còn gọi
là Trung thổ Trung nguyên Trung châu .
- phần mượn âm để
đọc : việt = cái rìu tức cái búa dẹp hay dẹt , Phủ – việt là búa
–rìu , thực ra cả 2 đều là từ Việt biến âm .
Búa là cái dùng để
bổ (động từ) : Bổ ↔ búa ↔ bủ – phủ .
Búa dẹp là cái dùng để
chặt , dẹp ↔ dẹt ↔ diệt – việt .
Chữ Việt bộ Mễ nghĩa là Vượt ,
là danh từ riêng tên của 1 quốc gia , hình vẽ chữ Mễ chỉ ra …nước
Việt có lãnh thổ là vùng Giao chỉ tức trung tâm thiên hạ .
Phối
hợp 2 chữ mượn chỉ tính chất và chỉ thanh âm cho ta 1 danh từ riêng
với ý nghĩa : Việt – Vượt là tên gọi 1 đất nước , đây đích thị là
quốc danh của quốc gia tiền nhân người Việt lập nên khởi đầu ở thời
Hùng Việt vương Tuấn lang tức ông Đại Vũ tổ của vương quốc Trung hoả
(theo Sử thuyết Hùng Việt ), thời Tản viên sơn thánh tức Việt vương
Tuấn lang là thời vượt lũ “….nước cao thêm thì núi cũng vượt cao thêm
..” .đấy chính là nghĩa của chữ Việt – vượt ‘quốc danh’ .
Vậy :
Chữ Việt bộ Mễ 粵 là danh từ riêng dùng trong tên các nước do người
họ Hùng lập ra như : nước Việt thời Hùng Việt vương , nước Việt của
Việt vương Câu tiễn , nước Nam Việt của Triệu Đà , nước Đại Việt thời
Lý công Uẩn và sau cùng là Việt nam ngày nay .
Về danh xưng nước
Việt trong lịch sử các sử gia thường nhấn mạnh đến nước Nam Việt của
Triệu đà …
Họ Triệu, tên húy là Đà, người huyện Chân Định nước Hán, đóng
đô ở Phiên Ngung (nay ở tỉnh Quảng Đông). Giáp Ngọ, năm thứ 1 [207 TCN], (Tần
Nhị Thế năm thứ 3). Vua chiếm lấy đất Lâm Ấp và Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt
Vương…
Giới sử học Việt hiện chia thành 2 trường phái nhận và phủ
nhận vai trò khởi đầu lịch sử dòng giống Việt của Triệu đà với
nước Nam Việt .
Riêng Sử thuyết Hùng Việt cho nước Việt khởi lập
trước mốc lịch sử nước Nam Việt của Triệu vũ vương cả 2000 năm
.
Trong 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt có đời Hùng Việt vương –
Tuấn lang .
Tuấn chỉ là tam sao thất bản của Tốn , quẻ Tốn tượng
là phong – gió chỉ phía Tây theo dịch học .
Tuấn lang =Tốn vương
↔Tản viên… nghĩa là chúa đất Phong hay đất phía Tây.
Xét tới đây đã
có thể xác định : Hùng Việt vương – Tuấn lang chính là “Tản viên sơn
thánh quốc chúa đại vương” tức Sơn tinh trong cuộc chiến Sơn tinh – Thủy
tinh .
Trong danh xưng của đời vua : Hùng Việt vương – Tuấn lang thì
:
Hùng là nước Hùng tức nước của người họ Hùng , cổ sử Trung hoa
gọi là Hữu Hùng quốc , Việt là triều đại ở đây ý nghĩa danh xưng
trọn vẹn là nước Hùng triều Việt vương , vua khai sáng là Tuấn lang
hay Tốn vương – Tản viên .
Nền sử học Trung quốc không phân biệt quốc
và triều , nước và nhà ….nước Đường cũng là nhà Đường và dĩ nhiên
nước việt cũng là triều đại Việt …
Sử kí ,Việt Vương Câu Tiễn thế gia
:
Việt Vương Câu Tiễn, tổ tiên ông ta là hậu duệ của Vũ [tức là Hạ Vũ, người
nối nghiệp Đế Thuấn], [# Chính nghĩa Ngô Việt xuân thu nói: “Vũ đi khắp thiên
hạ, trở về nước VIỆT, lên núi Mao để họp quần thần bốn phương, phong người có
công, phong tước người có đức, chết rồi táng ở đây. Đến Thiếu Khang sợ dứt việc
tế tự tông miếu của Vũ, bèn phong con thứ của mình ở đất Việt, hiệu gọi là Vô
Dư”….
Chuỗi Móc xích thông tin : Đại Vũ vua nước Việt trị thủy
thành công – Hùng Việt vương Tuấn lang – Tản viên Sơn thánh – sơn tinh
chiến thắng Thủy tinh …cho phép :
Kết luận : Trong dòng cổ sử Rõ
ràng nước Việt của đại Vũ cũng chính là nước Việt của Hùng Việt
vương – Tuấn lang ; Đại Vũ tổ nhà Hạ trong lịch sử Trung hoa chỉ là
1đời trong 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt .
2 / chữ Việt thứ II –
chữ Việt = Nhiệt : 越 là chữ Việt bộ Tẩu .
Cấu thành từ
chữ tẩu là chạy và chữ qua là 1 loại binh
khí .
Qua là từ mượn âm , mượn âm của cái ‘qua’ là binh khí nhưng
hiểu là quá , vượt qua .
Ghép 2 phần thành cho ra ý …chạy qúa tức
là vượt , vượt ↔ việt.
Chữ Việt bộ Tẩu 越 chỉ là chữ mượn âm
‘việt’ để tạo danh từ riêng chỉ dân sống ở vùng nóng hướng Xích đạo
do biến âm : Việt ↔ diệt ↔ nhiệt .
Trong văn minh Á đông cổ có Cửu
thiên nghĩa là 9 phương trời :
Viêm thiên
chỉ vùng viêm nhiệt tức hướng xích đạo nóng bức màu đỏ , Đỏ – Xích
– Hồng – Đào cùng 1 nghĩa . Phương trời ngược lại là Huyền thiên ,
huyền ở đây là màu đen đồng nghĩa với Mun – ô .
Vì đặt trên cái
nền Dịch học tiêu biểu là Cửu thiên nên người Trung hoa xưa coi vùng lưu
vực Hoàng hà là Trung thổ – trung nguyên , gọi dân sống ở nam Trường
giang là Bách Việt , Việt còn phát âm là Diệc – Diệt mà Diệt cũng
nghĩa là Nhiệt là nóng bức như thế ‘Bách Việt’ là danh từ riêng chỉ
tộc người ở miền nóng tức Viêm thiên đối đẳng với tộc người sống ở
Huyền thiên được gọi là Mun tộc , Mun = màu đen biến âm ra Man , Mãn ,
Mông , Minh .v.v.
Xét như vậy thì chữ Việt bộ Tẩu là tộc danh
của tộc người sống ở hướng nóng bức ; đó chính là cộng đồng người
họ Hùng mà sử sách gọi là Bách Việt cũng là bách Nhiệt vì thế
chữ Việt này dùng trong tên các chi tộc của Bách Việt như : Lạc Việt
, Di Việt , Dương Việt , Ngô Việt , Mân Việt ,Điền Việt , Đông Việt .v.v.
.
Ngày nay do quên mất gốc không thấu suốt cách tạo chữ nên sách vở
– văn bản vẫn còn tùm lum , lẫn lộn không phân biệt đâu là ‘quốc danh ’
đâu là ‘tộc danh ’ phán bừa …Việt nào cũng là Việt dùng chữ nào
cũng được cả .
Trong quốc hiệu Việt nam ngày nay khi viết bằng chữ
Nho vẫn dùng chữ Việt bộ Tẩu với ý chỉ Việt tộc – Nhiệt tộc ghép
với chữ Nam là phương Nam .
Phương Nam đa số học gỉa giải thích là
phương Nam so với Trung quốc ….hiểu như thế là vô hình trung ngay trong
quốc hiệu đã ẩn tàng tính phụ thuộc , sao không xưng là Việt Bắc
….nếu so với Indonesia ?, từ ‘phụ thuộc’trong danh xưng đến ‘ lệ
thuộc’ là khoảng cách rất ngắn , có cách hiểu khác hay hơn rõ hơn
….Nam là phía Nam chỉ ra vị trí nước Việt ngày nay nằm ở phía Nam
bản đồ ‘Thiên hạ’ , chẳng phải phía Nam của anh quái nào cả .
3 –
CHINA .
Tại sao ký âm Latinh lại viết Trung hoa là China ?.
Âm China
không dính dáng gì đến âm Trung – hoa hay Hán – hãn mà cũng chẳng thấy
hơi hám của Mông – Thát hay Khiết đan gì gì trong đó …vậy China mọc ở
đâu ra vậy ?.
Có người cho là : China là ký âm Latinh của từ Tần
,Tần là tên quốc gia nằm ở phía tây ‘thiên hạ’ đã có công thống nhất
Trung quốc cả về lãnh thổ và những nét chính của nền văn hóa như Văn
tự và Đo lường .v.v.
Điều này xem ra cũng có lý và rất lý thú
…
Tần còn gọi là Tây Tần đã chỉ ra vị trí nước này ở phía tây
trên bản đồ ‘thiên hạ’ thời Xuân thu – chiến quốc , thực ra quốc danh
Tần cũng chỉ là từ chỉ phía tây mà thôi ,thực vô cùng lý thú khi
khám phá …nó là từ Việt ngữ .
“Tần, phát âm theo Hán ngữ là “Chín”
(Qín), người Ấn Độ phiên cái âm “Chín” ấy thành China, sau người phương Tây theo
đó gọi Trung Quốc là China.” (Trích bài Chữ Khoa Đẩu của tác gỉa Lãn
Miên trên mạng internet )
Trong đồ
hình Hà thư (đồ) 2 số 4 và 9 là số của phương Tây , ngay từ Tây trong
phương Tây cũng chỉ là biến âm của Tư số 4 tiếng Việt mà ra .
- 4 Tư
↔ Tây .
- 9 Chín (tiếng Việt) ↔ Tần (Hán Việt) , như đã viết ở trên
chính người Hoa phát âm là ‘Chín’ hoàn toàn đúng với cái gốc số 9
chín Việt ngữ chỉ phương Tây của Hà thư .
Dưới ánh sáng Dịch học
…đến cái quốc danh CHINA ký âm La tinh chỉ Trung Hoả cũng lộ rõ gốc
là 1 từ Việt thuần …hỏi còn gì phải bàn nữa